net_left Kdata Phương Thức Thanh Toán

Kích thích tín dụng cần những giải pháp đột phá

06 Tháng Mười 2021
Kích thích tín dụng cần những giải pháp đột phá Kích thích tín dụng cần những giải pháp đột phá

Vietstock - Kích thích tín dụng cần những giải pháp đột phá

Song song với việc kiểm soát dòng vốn tín dụng, nỗ lực thúc đẩy giảm lãi suất cho vay, Chính phủ, NHNN nên có cơ chế, giải pháp giúp cung cầu vốn liên thông hơn, chứ như tình trạng hiện nay doanh nghiệp cần vốn nhưng lại khó tiếp cận, ngân hàng thừa vốn nhưng vẫn không thể nới lỏng các điều kiện cho vay.

Cho vay bất ngờ chậm lại

Số liệu công bố của Tổng Cục Thống kê mới đây cho thấy tăng trưởng tín dụng tính đến ngày 20/9 tăng trưởng 7.17% so với đầu năm, tuy cao hơn nhiều so với cùng thời điểm năm 2020 là 4.99%, nhưng nếu so với thời điểm tháng 8 năm nay thì đang cho thấy sự sụt giảm trở lại. Trước đó, thời điểm đầu tháng 9, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước (NHNN) từng chia sẻ tăng trưởng tín dụng đến cuối tháng 8 đã đạt 7.4%. Nếu tính theo số tuyệt đối, dư nợ tín dụng đã giảm hơn 21,000 nghìn tỷ đồng trong 20 ngày đầu tháng 9.

Đây dường như là hệ quả của chính sách giãn cách xã hội chặt chẽ tại các tỉnh thành phía Nam, đặc biệt là trung tâm kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, khi nhu cầu vay vốn không chỉ ngày càng suy yếu vì tình hình dịch bệnh mà việc giãn cách đã khiến các hoạt động thẩm định, đăng ký tài sản bảo đảm hay ký kết hợp đồng vay mới với khách hàng cũng bị ảnh hưởng. Thực tế, các ngân hàng vừa qua cũng chỉ được phép duy trì hoạt động một số đơn vị nhất định trước các quy định về giãn cách xã hội, và phải đáp ứng được quy định làm việc 3 tại chỗ.

Trong khi đó, một số ngân hàng có lẽ cũng rơi vào tình huống sử dụng hết hạn mức cho vay nên phải chờ được nhận chính thức chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng quý 4. Đây cũng là điều đã từng xảy ra hồi quý 2, khi các ngân hàng hết hạn mức nên buộc phải chấp nhận cho vay chậm lại để chờ được nới thêm hạn mức, do trong năm nay NHNN đã chuyển sang giao chỉ tiêu tăng trưởng hàng quý thay vì là cả năm như những năm trước.

Dù vậy, có lẽ các ngân hàng hàng đã tích cực cho vay hơn trong giai đoạn cuối tháng 9 vừa qua để chốt số báo cáo tài chính quý 3, cũng như sẽ tăng cường phát triển tín dụng trong thời gian còn lại của năm nay, nhất là sau khi chính sách giãn cách xã hội đã được nới lỏng hơn, hoạt động của nhiều doanh nghiệp được khôi phục trở lại, trong khi hoạt động của các ngân hàng cũng quay về lại tình trạng bình thường.

Dù vậy, trong bối cảnh nền kinh tế đầy rủi ro như hiện nay, chính sách phát triển tín dụng hay tái cơ cấu nợ cho khách hàng của các nhà băng có thể sẽ thận trọng hơn. Gần đây, nhiều ý kiến cho rằng các ngân hàng phải giảm lãi suất cho vay nhiều hơn, ban hành các gói hỗ trợ lãi suất, tăng cường cho vay để hỗ trợ doanh nghiệp thoát khỏi khó khăn, nhưng đứng về phía các nhà băng, các lựa chọn không phải là dễ dàng.

Cần một cơ chế đột phá

Đơn cử như trường hợp với các doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn và cần phải có nguồn tài chính bơm thêm mới có thể phục hồi, rõ ràng nếu ngân hàng không cho vay thêm ngay vào lúc này để hỗ trợ thì khả năng doanh nghiệp sẽ không thể phục hồi, nguy cơ phá sản hiển hiện. Lúc này, các khoản đã cho vay trước đây sẽ thành nợ xấu có nguy cơ mất vốn là tất yếu.

Tuy nhiên, nếu như quyết định cho vay thêm nhưng doanh nghiệp vẫn không thể phục hồi thì lại càng làm gia tăng thêm hậu quả. Nhìn vào dịch bệnh diễn biến phức tạp thời gian qua và chưa chắc chắn sẽ còn đi đến đâu, không ai có thể nói trước được điều gì. Số liệu thống kê mới đây cũng cho thấy đã có 45.1 nghìn doanh nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh có thời hạn trong 9 tháng qua, tăng 16.7% so với cùng kỳ năm trước.

Rõ ràng câu chuyện nguy cơ phá sản của Tập đoàn bất động sản hàng đầu Trung Quốc là Evergrande (HK:3333), mà có thể khiến hàng loạt ngân hàng cho tổ chức này vay rơi vào tình trạng thua lỗ, đang là tâm điểm sẽ càng làm tăng tâm lý e ngại rủi ro. Với những quả bom nổ chậm như thế, các tổ chức tài chính có lý do để lo ngại về một viễn cảnh không mấy tươi sáng phía trước. Mới đây, NHNN cũng đưa ra dự báo tỷ lệ nợ xấu vào cuối năm nay có thể xấp xỉ 8%, cho thấy những lo ngại của nhà điều hành về nguy cơ nợ xấu tăng nhanh trong giai đoạn tới.

Vì vậy, khó nhất hiện nay là phải có chính sách phù hợp để lựa chọn những doanh nghiệp nào có thể được cứu để vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay và sống sót được. Nhưng muốn cứu thì cũng phải có những chính sách đột phá, mạnh dạn, còn nếu sợ trách nhiệm thì rất khó làm. Thực tế hiện nay là như vậy, khi quá khứ cũng từng cho thấy các gói hỗ trợ lãi suất được đưa ra nhưng sau đó làm không đúng đã khiến nhiều người phải gánh trách nhiệm.

Vì vậy, có thể thấy dù lãi suất cho vay thời gian qua đã giảm đáng kể, nhưng nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn không thể tiếp cận nguồn vốn cho vay ra từ ngân hàng. Giới phân tích cũng đã chỉ ra rằng, hiện nay các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất khó khăn, nhiều doanh nghiệp không có khả năng tồn tại, thiếu dự án khả thi, nếu ngân hàng cho vay sẽ rất rủi ro. Trong khi đó, theo luật Tổ chức tín dụng, các ngân hàng không được cho vay doanh nghiệp thua lỗ, còn luật Quản lý nợ công thì quy định Chính phủ không được bảo lãnh vốn vay của doanh nghiệp.

Thực tế không loại trừ khả năng tín dụng thời gian qua tăng lên phần lớn rót vào các lĩnh vực như nhà đất hay chứng khoán nhưng ẩn sau các mục đích vay vốn khác, hay việc các ngân hàng rót vốn đầu tư vào trái phiếu của các doanh nghiệp bất động sản. Trong khi đó, những doanh nghiệp sản xuất đang gặp khó khăn và cần vốn để phục hồi lại có những hạn chế trong việc tiếp cận tín dụng ngân hàng, khi mà các phương án sản xuất, phục hồi cũng không thật sự rõ ràng trong bối cảnh kinh tế đầy rủi ro như hiện nay, nên đứng về phía các ngân hàng cũng rất khó cho vay để hỗ trợ.

Do đó, song song với việc kiểm soát dòng vốn tín dụng, nỗ lực thúc đẩy giảm thêm lãi suất cho vay, Chính phủ, NHNN nên có cơ chế, giải pháp giúp cung cầu vốn liên thông hơn, chứ như tình trạng hiện nay doanh nghiệp cần vốn nhưng lại khó tiếp cận, ngân hàng thừa vốn nhưng vẫn không thể nới lỏng các điều kiện cho vay để tránh hậu họa cũng như trách nhiệm trong tương lai, vì rủi ro kinh tế hiện nay là quá lớn, hầu hết các doanh nghiệp không thể đáp ứng các điều kiện, chuẩn mực vay vốn.

Một số cơ chế cũng đã được đề xuất, như Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) mới đây cho rằng Chính phủ cần bảo lãnh một số hoạt động cho vay hay chương trình tín dụng nào đó để cho phép ngân hàng cho một số doanh nghiệp đạt yêu cầu vay. Hiểu đơn giản, Chính phủ có thể thực hiện đảm bảo rủi ro cho những đối tượng này, giúp ngân hàng củng cố niềm tin khi cho vay. Ngoài ra, Chính phủ cũng nên tận dụng các nguồn vốn tài trợ từ quốc tế để hỗ trợ các doanh nghiệp nội địa.

Trong khi đó, các doanh nghiệp và giới phân tích gần đây cũng đề xuất ý tưởng nên sớm có một gói hỗ trợ lãi suất như năm 2009, đồng thời phải có các chính sách tạm thời nới các điều kiện tín dụng, khuyến khích cho vay tín chấp đối với các doanh nghiệp.

Khó nhất hiện nay là phải có chính sách phù hợp để lựa chọn những doanh nghiệp nào có thể được cứu để vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay và sống sót được. Nhưng muốn cứu thì cũng phải có những chính sách đột phá, mạnh dạn, còn nếu sợ trách nhiệm thì rất khó làm. Thực tế, hiện nay là như vậy, khi quá khứ cũng từng cho thấy các gói hỗ trợ lãi suất được đưa ra nhưng sau đó làm không đúng đã khiến nhiều người phải gánh trách nhiệm.

Phan Thụy

Để lại bình luận
Hot Auto Trade Bot Phương Thức Thanh Toán
BROKERS ĐƯỢC CẤP PHÉP
net_home_top Ai VIF
01-05-2024 10:45:17 (UTC+7)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

GBP/USD

1.2475

-0.0015 (-0.12%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

USD/JPY

157.91

+0.12 (+0.07%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

AUD/USD

0.6469

-0.0003 (-0.05%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

USD/CAD

1.3780

+0.0003 (+0.03%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (7)

Sell (0)

EUR/JPY

168.32

+0.10 (+0.06%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

EUR/CHF

0.9808

+0.0001 (+0.01%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (2)

Gold Futures

2,295.80

-7.10 (-0.31%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Silver Futures

26.677

+0.023 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (2)

Sell (10)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Copper Futures

4.5305

-0.0105 (-0.23%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (8)

Sell (1)

Crude Oil WTI Futures

81.14

-0.79 (-0.96%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Brent Oil Futures

85.62

-0.71 (-0.82%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (1)

Sell (11)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Natural Gas Futures

1.946

-0.009 (-0.46%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (5)

US Coffee C Futures

213.73

-13.77 (-6.05%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

Euro Stoxx 50

4,920.55

-60.54 (-1.22%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

S&P 500

5,035.69

-80.48 (-1.57%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

DAX

17,921.95

-196.37 (-1.08%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

FTSE 100

8,144.13

-2.90 (-0.04%)

Summary

Sell

Moving Avg:

Buy (5)

Sell (7)

Indicators:

Buy (2)

Sell (4)

Hang Seng

17,763.03

+16.12 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

US Small Cap 2000

1,973.05

-42.98 (-2.13%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

IBEX 35

10,854.40

-246.40 (-2.22%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (6)

Sell (6)

Indicators:

Buy (3)

Sell (3)

BASF SE NA O.N.

49.155

+0.100 (+0.20%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Bayer AG NA

27.35

-0.24 (-0.87%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (8)

Allianz SE VNA O.N.

266.60

+0.30 (+0.11%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (5)

Adidas AG

226.40

-5.90 (-2.54%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (7)

Deutsche Lufthansa AG

6.714

-0.028 (-0.42%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (9)

Sell (1)

Siemens AG Class N

175.90

-1.74 (-0.98%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Deutsche Bank AG

15.010

-0.094 (-0.62%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (6)

Sell (2)

 EUR/USD1.0658↑ Sell
 GBP/USD1.2475↑ Sell
 USD/JPY157.91↑ Buy
 AUD/USD0.6469Neutral
 USD/CAD1.3780↑ Buy
 EUR/JPY168.32↑ Buy
 EUR/CHF0.9808Neutral
 Gold2,295.80↑ Sell
 Silver26.677↑ Sell
 Copper4.5305↑ Buy
 Crude Oil WTI81.14↑ Sell
 Brent Oil85.62↑ Sell
 Natural Gas1.946↑ Sell
 US Coffee C213.73↑ Sell
 Euro Stoxx 504,920.55↑ Sell
 S&P 5005,035.69↑ Sell
 DAX17,921.95↑ Sell
 FTSE 1008,144.13Sell
 Hang Seng17,763.03↑ Sell
 Small Cap 20001,973.05↑ Sell
 IBEX 3510,854.40Neutral
 BASF49.155↑ Sell
 Bayer27.35↑ Sell
 Allianz266.60↑ Sell
 Adidas226.40↑ Sell
 Lufthansa6.714Neutral
 Siemens AG175.90↑ Sell
 Deutsche Bank AG15.010Neutral
Mua/Bán 1 chỉ SJC
# So hôm qua # Chênh TG
SJC Eximbank8,300/ 8,500
(8,300/ 8,500) # 1,298
SJC 1L, 10L, 1KG8,300/ 8,520
(0/ 0) # 1,510
SJC 1c, 2c, 5c7,380/ 7,550
(0/ 0) # 540
SJC 0,5c7,380/ 7,560
(0/ 0) # 550
SJC 99,99%7,370/ 7,470
(0/ 0) # 460
SJC 99%7,196/ 7,396
(0/ 0) # 386
Cập nhật 01-05-2024 10:45:19
Xem lịch sử giá vàng SJC: nhấn đây!
ↀ Giá vàng thế giới
$2,285.72-47.5-2.04%
Live 24 hour Gold Chart
ʘ Giá bán lẻ xăng dầu
Sản phẩmVùng 1Vùng 2
RON 95-V25.44025.940
RON 95-III24.91025.400
E5 RON 92-II23.91024.380
DO 0.05S20.71021.120
DO 0,001S-V21.32021.740
Dầu hỏa 2-K20.68021.090
ↂ Giá dầu thô thế giới
WTI$80.83+3.390.04%
Brent$85.50+3.860.05%
$ Tỷ giá Vietcombank
Ngoại tệMua vàoBán ra
USD25.088,0025.458,00
EUR26.475,3627.949,19
GBP30.873,5232.211,36
JPY156,74166,02
KRW15,9219,31
Cập nhật lúc 10:45:15 01/05/2024
Xem bảng tỷ giá hối đoái
Phương Thức Thanh Toán