net_left Kdata Phương Thức Thanh Toán
Phương Thức Thanh Toán

Ba ngân hàng tiên phong giảm lãi suất cho vay. Thị trường 16/7

Theo Dong Hai AiVIF.com -- Agribank, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (HM:STB) và Ngân hàng TMCP Á Châu (HM:ACB) là ba ngân hàng tiên phong điều chỉnh giảm lãi suất cho vay để...
Ba ngân hàng tiên phong giảm lãi suất cho vay. Thị trường 16/7 © Reuters

Theo Dong Hai

AiVIF.com -- Agribank, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (HM:STB) và Ngân hàng TMCP Á Châu (HM:ACB) là ba ngân hàng tiên phong điều chỉnh giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn do dịch bệnh. Nhìn lại cơ hội phát triển của ngành mía đường Việt Nam sau khi đường nhập khẩu Thái Lan với giá rất rẻ bị áp thuế chống bán phá. Và quỹ đất công nghiệp sẽ phát triển mạnh sau dịch. Ba tin tức trên sẽ là ba thông tin chính trong chuyển động trên thị trường Việt Nam phiên giao dịch cuối tuần thứ Sáu ngày 16/7.

1. Agribank, Sacombank và ACB là ba ngân hàng tiên phong điều chỉnh giảm lãi suất cho vay

Nhiều ngân hàng đã đồng loạt giảm lãi suất cho vay sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) kêu gọi sự hỗ trợ đối với các doanh nghiệp, cá nhân gặp khó do ảnh hưởng của COVID-19. Trong đó, Agribank, Sacombank và ACB là ba ngân hàng tiên phong điều chỉnh giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn do dịch bệnh.

  • Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) phát đi thống báo đối với khoản vay tại thời điểm 15/7/2021, Agribank giảm tiếp 10% so với lãi suất cho vay đang áp dụng đối với dư nợ cho vay ngắn hạn có lãi suất từ 5%/năm trở lên và dư nợ cho vay trung, dài hạn có lãi suất từ 7%/năm trở lên, tương ứng giảm từ 0,5 điểm % và từ 0,7 điểm % trở lên. Ước tính, Agribank dành khoảng 5.500 tỷ đồng cho việc tiếp tục giảm lãi suất lần này. Agribank cho biết ngân hàng cũng đã tích cực tháo gỡ khó khăn cho khách hàng như cơ cấu lại nợ gốc và lãi, miễn phí chuyển tiền trong nước, ủng hộ công tác phòng chống dịch. Chương trình giảm lãi suất cho vay kéo dài đến hết năm nay và được áp dụng tại 2.300 điểm giao dịch của Agribank trên toàn quốc.
  • Còn tại Sacombank thì đây là ngân hàng đầu tiên thông báo giảm lãi suất cho vay. Sacombank sẽ thực hiện giảm lãi suất 1%/năm cho các khách hàng doanh nghiệp và cá nhân đang có khoản vay tại ngân hàng thuộc các ngành nghề chịu tác động trực tiếp của dịch bệnh COVID-19 như du lịch, lữ hành, vận tải, nhà hàng - khách sạn - nghỉ dưỡng, giáo dục, y tế…. Đồng thời tiếp tục ưu đãi, miễn phí dịch vụ, cơ cấu nợ và điều chỉnh giảm khung lãi suất cho vay. Ngoài ra, ngân hàng cũng đang triển khai nguồn vốn ưu đãi 10.000 tỷ đồng với lãi suất từ 4%/năm, thời hạn vay tối đa 6 tháng dành cho doanh nghiệp xuất khẩu cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp khắc phục khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn ưu đãi được áp dụng từ ngày 18/6/2021 đến hết ngày 31/12/2021 hoặc khi hết nguồn tùy điều kiện nào đến trước.
  • Về phía Ngân hàng ACB cho biết sẽ giảm lãi suất cho các khách hàng hiện hữu với mức tối đa 0,8%/năm cho khoản vay ngắn hạn và 1%/năm cho khoản vay trung dài hạn. ACB sẽ xem xét điều chỉnh lãi suất cho khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp có hợp đồng vay và tại thời điểm đến hạn thay đổi lãi suất trong khoảng thời gian từ ngày 15/7 đến 15/10/2021. Ngân hàng sẽ xét thêm về mức độ dịch bệnh tác động đến tình hình kinh doanh (doanh thu, lợi nhuận, số lượng lao động,…) của các doanh nghiệp, thu nhập của khách hàng cá nhân và mức độ gắn kết của khách hàng với ngân hàng để có mức giảm lãi suất phù hợp.

Ngoài ra còn có 16 tổ chức tín dụng khác như Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (HM:VCB), Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (HM:CTG), Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (HM:BID), Ngân hàng TMCP Quân đội (HM:MBB), Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (HM:TCB), Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (HN:SHB), Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt (HM:LPB), Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (HM:VPB), Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (HM:VIB), Ngân hàng TMCP Tiên Phong (HM:TPB), SeABank, MSB, Ngân hàng TMCP Phát triển T.P Hồ Chí Minh (HM:HDB). Các ngân hàng này sẽ tùy theo đối tượng bị ảnh hưởng và có mức giảm lãi suất phù hợp, thời hạn thực hiện giảm lãi suất là trong tháng 7 cho đến hết năm 2021.

2. Cơ hội phát triển của ngành mía đường Việt Nam sau khi đường nhập khẩu Thái Lan với giá rất rẻ bị áp thuế chống bán phá

Từ khi Việt Nam áp thuế, sản lượng đường Thái Lan về Việt Nam giảm nhưng sản lượng đường giá rẻ, thực chất vẫn là đường Thái Lan vẫn vào Việt Nam thông qua các nước khác.

Trong 5 tháng đầu năm 2021, xảy ra hiện tượng bất thường trong nhập khẩu đường vào Việt Nam từ một số quốc gia ASEAN. Lượng đường nhập khẩu từ Campuchia, Lào, Malaysia, Myanmar và Indonesia vào Việt Nam đã gia tăng “bùng nổ” so với cùng kỳ năm 2020, với mức tăng gấp 16 lần. Đây là dấu hiệu rõ ràng của động thái lẩn tránh thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp tạm thời đối với sản phẩm đường mía có xuất xứ từ Thái Lan. Hiệp hội tiếp tục cung cấp thêm các bằng chứng này với cơ quan chức năng, nhất là Bộ Công Thương về hoạt động nhập khẩu lẩn tránh thuế này. Mặc dù vừa qua, các đường biên giới được kiểm soát chẽ bởi sự kiểm soát dịch COVID-19 nhưng thực tế đường lậu vẫn vào Việt Nam.

Bên cạnh câu chuyện ngành mía đường phải tích cực đấu tranh với các gian lận thương mại, tăng cường phòng vệ thương mại thì bản thân doanh nghiệp ngành đường cũng phải tự nỗ lực để thích ứng với tình hình mới. Với thực trạng nông dân phải bỏ cây mía tìm đến các cây trồng khác, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Lê Quốc Thanh đánh giá, có lẽ đây cũng là quy luật cung cầu khi hiệu quả cây mía thấp hơn cây trồng khác và là điều tích cực. Tuy nhiên, đi kèm theo các vùng mía đó là các nhà máy mía đường. Việt Nam đã có một thời gian phát triển ồ ạt các nhà máy mía đường; trong đó có một số nhà máy không có công nghệ hiện đại dẫn đến chi phí sản xuất cao, hiệu quả sản xuất thấp, thiếu sức cạnh tranh.

Đối với Công ty cổ phần Thành Thành Công - Biên Hòa (HM:SBT) vẫn đã và đang xây dựng nhiều chính sách đầu tư, thường xuyên tổ chức các chương trình khuyến nông, chuyển giao kỹ thuật cho người trồng mía để có những chuyển biến tích cực đến từng cánh đồng mía.

Đại diện SBT cho biết có thể tự tin bước vào hội nhập, bởi doanh nghiệp tiên phong trong quá trình chuyển đổi số, hướng dẫn người nông dân ứng dụng các phương pháp cánh tác mới và công nghệ quản lý hiện đại vào cánh đồng truyền thống. Các nông trường của SBT từ 3 năm nay đã áp dụng hệ thống quản lý nông nghiệp (FRM), bám sát tình hình và kịp thời đưa ra những khuyến nghị phù hợp cho từng cánh đồng mía. Các doanh nghiệp của SBT cũng thực hiện chính sách đầu tư vốn, máy móc thiết bị từ 18 - 50 triệu đồng/ha tùy khách hàng, khu vực và cam kết bao tiêu đầu ra trong 3 vụ cho người nông dân an tâm canh tác. Người nông dân cũng được khuyến khích dồn điền, đổi thửa để cùng SBT tạo nên những cánh đồng mía lớn, hướng tới mục tiêu cơ giới hóa toàn diện, nâng cao năng suất và sản lượng cũng như trữ đường để giảm giá thành, tăng lợi nhuận cho các bên. Đối với những sản phẩm ngoài đường mới chỉ là định hướng. Việc phát triển các sản phẩm phụ như cồn nhiên liệu, điện từ bã mía… sẽ lệ thuộc vào chính sách khuyến khích, hỗ trợ của nhà nước. Mía được xem là cây trồng có sự gắn kết chặt chẽ giữa nông dân và nhà máy, khác hẳn so với các cây trồng khác. Đây có lẽ là một cây trồng có điều kiện bắt buộc và sẽ không phải lo hỗ trợ tiêu thụ.

3. Quỹ đất công nghiệp sẽ phát triển mạnh sau dịch

Theo JLL Việt Nam, dưới tác động của làn sóng dịch Covid-19 lần thứ 4 bùng phát mạnh từ nửa cuối quý II/2021 đến nay, thị trường nhà xưởng xây sẵn phía Nam không ghi nhận nguồn cung mới.

Trong khi đó, thị trường đất công nghiệp cho thuê cũng chỉ ghi nhận thêm một nguồn cung mới từ Khu công nghiệp Trần Anh Tân Phú tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An do Trần Anh Group làm chủ đầu tư.

Xét theo bản đồ phân bố khu công nghiệp hiện tại, trong số 6 địa phương có nền sản xuất phát triển nhất của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nguồn cung bất động sản công nghiệp của TP.HCM (HM:HCM) chỉ đứng thứ 5 sau Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An và xếp trên Tây Ninh. Năm năm qua, TP.HCM không có thêm khu công nghiệp mới nào, hiện có 18 khu công nghiệp, cung cấp gần 3.700 ha đất công nghiệp cho thuê.

Trước những áp lực cần tăng nguồn cung mới, trong khi một số dự án khu công nghiệp đã có chủ trương đầu tư triển khai ì ạch, mới đây, UBND TP.HCM đã có văn bản kiến nghị Chính phủ cho phép xóa 3 khu công nghiệp Bàu Đưng, Phước Hiệp ở huyện Củ Chi và Khu công nghiệp Xuân Thới Thượng ở huyện Hóc Môn khỏi quy hoạch, đồng thời đề xuất thay thế bằng Khu công nghiệp Phạm Văn Hai ở huyện Bình Chánh từ quy mô 380 ha lên 668 ha.

Theo đánh giá của UBND TP.HCM, vị trí khu đất này hiện nay là đất nông nghiệp, hiện do Công ty TNHH một thành viên Cây trồng TP.HCM quản lý, sử dụng. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế thấp do đất bị nhiễm phèn nặng, luôn bị xâm nhập mặn và ô nhiễm bởi nguồn nước thải từ khu dân cư xung quanh. Do đó, việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ phát triển nông nghiệp không hiệu quả sang phát triển công nghiệp tập trung là phù hợp với điều kiện tự nhiên, sử dụng hiệu quả quỹ đất...

UBND TP.HCM cũng kỳ vọng Khu công nghiệp Phạm Văn Hai sẽ là khu công nghiệp mới có khả năng triển khai nhanh, thu hút đầu tư tốt, có nhiều đặc điểm thuận lợi để phát triển thành một khu công nghiệp mới có chất lượng và tính cạnh tranh cao.

Ngoài TP.HCM, tỉnh Long An cũng dự kiến sẽ có thêm khoảng 1.500 ha diện tích đất sạch để phát triển các khu công nghiệp trong năm 2021. Cùng với đó, tại Long An, Chính phủ cũng đã có quyết định chủ trương đầu tư dự án Khu công nghiệp Thế Kỷ do Công ty TNHH Hải Sơn làm chủ đầu tư, tại xã Hữu Thạnh, huyện Đức Hoà. Dự án có quy mô sử dụng đất trên 119 ha, với tổng vốn đầu tư là 1.355 tỷ đồng, tiến độ thực hiện không quá 36 tháng kể từ ngày được Nhà nước bàn giao đất.

Còn tỉnh Đồng Nai cũng đã công bố kế hoạch xây dựng 3 khu công nghiệp mới với tổng diện tích 6.475 ha nhằm giải quyết vấn đề quá tải của các dự án đang hoạt động. Đó là các khu công nghiệp Long Đức 3 có diện tích 253 ha; Khu công nghiệp Bàu Cạn - Tân Hiệp rộng 2.627 ha và Khu công nghiệp Xuân Quế - Sông Nhạn khoảng 3.595 ha.

Hot Auto Trade Bot Phương Thức Thanh Toán
BROKERS ĐƯỢC CẤP PHÉP
net_home_top Ai VIF
01-05-2024 10:45:17 (UTC+7)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

GBP/USD

1.2475

-0.0015 (-0.12%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

USD/JPY

157.91

+0.12 (+0.07%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

AUD/USD

0.6469

-0.0003 (-0.05%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

USD/CAD

1.3780

+0.0003 (+0.03%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (7)

Sell (0)

EUR/JPY

168.32

+0.10 (+0.06%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

EUR/CHF

0.9808

+0.0001 (+0.01%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (2)

Gold Futures

2,295.80

-7.10 (-0.31%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Silver Futures

26.677

+0.023 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (2)

Sell (10)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Copper Futures

4.5305

-0.0105 (-0.23%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (8)

Sell (1)

Crude Oil WTI Futures

81.14

-0.79 (-0.96%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Brent Oil Futures

85.62

-0.71 (-0.82%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (1)

Sell (11)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Natural Gas Futures

1.946

-0.009 (-0.46%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (5)

US Coffee C Futures

213.73

-13.77 (-6.05%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

Euro Stoxx 50

4,920.55

-60.54 (-1.22%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

S&P 500

5,035.69

-80.48 (-1.57%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

DAX

17,921.95

-196.37 (-1.08%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

FTSE 100

8,144.13

-2.90 (-0.04%)

Summary

Sell

Moving Avg:

Buy (5)

Sell (7)

Indicators:

Buy (2)

Sell (4)

Hang Seng

17,763.03

+16.12 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

US Small Cap 2000

1,973.05

-42.98 (-2.13%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

IBEX 35

10,854.40

-246.40 (-2.22%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (6)

Sell (6)

Indicators:

Buy (3)

Sell (3)

BASF SE NA O.N.

49.155

+0.100 (+0.20%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Bayer AG NA

27.35

-0.24 (-0.87%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (8)

Allianz SE VNA O.N.

266.60

+0.30 (+0.11%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (5)

Adidas AG

226.40

-5.90 (-2.54%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (7)

Deutsche Lufthansa AG

6.714

-0.028 (-0.42%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (9)

Sell (1)

Siemens AG Class N

175.90

-1.74 (-0.98%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Deutsche Bank AG

15.010

-0.094 (-0.62%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (6)

Sell (2)

    EUR/USD 1.0658 ↑ Sell  
    GBP/USD 1.2475 ↑ Sell  
    USD/JPY 157.91 ↑ Buy  
    AUD/USD 0.6469 Neutral  
    USD/CAD 1.3780 ↑ Buy  
    EUR/JPY 168.32 ↑ Buy  
    EUR/CHF 0.9808 Neutral  
    Gold 2,295.80 ↑ Sell  
    Silver 26.677 ↑ Sell  
    Copper 4.5305 ↑ Buy  
    Crude Oil WTI 81.14 ↑ Sell  
    Brent Oil 85.62 ↑ Sell  
    Natural Gas 1.946 ↑ Sell  
    US Coffee C 213.73 ↑ Sell  
    Euro Stoxx 50 4,920.55 ↑ Sell  
    S&P 500 5,035.69 ↑ Sell  
    DAX 17,921.95 ↑ Sell  
    FTSE 100 8,144.13 Sell  
    Hang Seng 17,763.03 ↑ Sell  
    Small Cap 2000 1,973.05 ↑ Sell  
    IBEX 35 10,854.40 Neutral  
    BASF 49.155 ↑ Sell  
    Bayer 27.35 ↑ Sell  
    Allianz 266.60 ↑ Sell  
    Adidas 226.40 ↑ Sell  
    Lufthansa 6.714 Neutral  
    Siemens AG 175.90 ↑ Sell  
    Deutsche Bank AG 15.010 Neutral  
Mua/Bán 1 chỉ SJC
# So hôm qua # Chênh TG
SJC Eximbank8,300/ 8,500
(8,300/ 8,500) # 1,298
SJC 1L, 10L, 1KG8,300/ 8,520
(0/ 0) # 1,510
SJC 1c, 2c, 5c7,380/ 7,550
(0/ 0) # 540
SJC 0,5c7,380/ 7,560
(0/ 0) # 550
SJC 99,99%7,370/ 7,470
(0/ 0) # 460
SJC 99%7,196/ 7,396
(0/ 0) # 386
Cập nhật 01-05-2024 10:45:19
Xem lịch sử giá vàng SJC: nhấn đây!
ↀ Giá vàng thế giới
$2,285.72 -47.5 -2.04%
Live 24 hour Gold Chart
ʘ Giá bán lẻ xăng dầu
Sản phẩm Vùng 1 Vùng 2
RON 95-V25.44025.940
RON 95-III24.91025.400
E5 RON 92-II23.91024.380
DO 0.05S20.71021.120
DO 0,001S-V21.32021.740
Dầu hỏa 2-K20.68021.090
ↂ Giá dầu thô thế giới
WTI $80.83 +3.39 0.04%
Brent $85.50 +3.86 0.05%
$ Tỷ giá Vietcombank
Ngoại tệMua vàoBán ra
USD25.088,0025.458,00
EUR26.475,3627.949,19
GBP30.873,5232.211,36
JPY156,74166,02
KRW15,9219,31
Cập nhật lúc 10:45:15 01/05/2024
Xem bảng tỷ giá hối đoái
Phương Thức Thanh Toán