net_left Kdata Phương Thức Thanh Toán
Phương Thức Thanh Toán

Bất động sản công nghiệp Việt Nam tăng trưởng tốt

AiVIF - Bất động sản công nghiệp Việt Nam tăng trưởng tốtTrong khi ngành địa ốc và sản xuất chịu nhiều tác động lớn của đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ tư, lĩnh vực bất...
Bất động sản công nghiệp Việt Nam tăng trưởng tốt Bất động sản công nghiệp Việt Nam tăng trưởng tốt

AiVIF - Bất động sản công nghiệp Việt Nam tăng trưởng tốt

Trong khi ngành địa ốc và sản xuất chịu nhiều tác động lớn của đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ tư, lĩnh vực bất động sản công nghiệp vẫn ghi nhận những tín hiệu tích cực.

Theo các chuyên gia, những chính sách và cam kết hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam vẫn là động lực lớn để lĩnh vực bất động sản khu công nghiệp thu hút dòng vốn đầu tư.

Đến nay, Việt Nam đang có 394 khu công nghiệp với diện tích 121.900 ha trải dài khắp cả nước. Trong đó, có 286 khu công nghiệp đang hoạt động, tỷ lệ lấp đầy bình quân đạt gần 72%. Còn lại 108 khu công nghiệp đang được xây dựng hoặc trong giai đoạn đền bù, giải phóng mặt bằng.

Theo Bộ Kế hoạch Đầu tư, trong 9 tháng đầu năm 2021, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực sản xuất và chế biến đạt 11,83 tỷ USD. Cụ thể, vốn đăng ký mới đạt gần 5,5 tỷ USD, vốn bổ sung 5,55 tỷ USD và vốn góp 805 triệu USD.

Dòng FDI lớn đổ vào Việt Nam

Khu vực phía Bắc chiếm gần 73% tổng vốn FDI đăng ký mới, miền Trung chiếm 19,4%, miền Nam chiếm 7,6%. Nhóm ngành sản xuất và chế tạo vẫn dẫn đầu trong việc thu hút các nhà đầu tư trong 9 tháng qua với tỷ lệ vốn lên đến 53,4%, tiếp sau đó là lĩnh vực phân phối năng lượng, bất động sản và bán lẻ.

Theo thống kê của Savills Việt Nam, các thương vụ FDI trong lĩnh vực sản xuất tại phía Bắc bao gồm Công ty Kraft Vina (Nhật Bản) - chuyên gia sản xuất sản phẩm từ giấy - đầu tư 611 triệu USD vào khu công nghiệp Bình Xuyên tại tỉnh Vĩnh Phúc.

Việc kiểm soát dịch bệnh nhanh chóng tại các khu công nghiệp tại Việt Nam thể hiện nỗ lực của Chính phủ trong việc đảm bảo sự ổn định của chuỗi cung ứng. Ảnh: Thạch Thảo.

Trong lĩnh vực sản xuất linh kiện điện tử, Công ty Jinko Solar (Hong Kong) và JA Solar Investment (Trung Quốc) đầu tư 498 triệu USD vào khu công nghiệp Amata Quảng Ninh (Quảng Ninh) và 210 triệu USD vào khu công nghiệp Quang Châu (Bắc Giang).

Đối với ngành thiết bị điện tử, Công ty Foxconn Technology (Singapore) và BYD Electronics (Hong Kong) cũng đã đầu tư 270 triệu USD vào khu công nghiệp Phú Hà IP (Phú Thọ) và 269 triệu USD vào khu công nghiệp Quang Châu (Bắc Giang).

Tại phía Nam, giá trị của các thương vụ đầu tư có sự chênh lệnh khá lớn so với khu vực phía Bắc. Savills ghi nhận thương vụ có giá trị lớn nhất trong 9 tháng đầu năm tại khu vực phía Nam là khoản đầu tư của ILD Coffee Holdings (Singapore) trong lĩnh vực thực phẩm và đồ uống với 78 triệu USD tại KCN Protrade (Bình Dương).

Đứng thứ hai là thương vụ trị giá 60 triệu USD của Pingfu Home Products (Mỹ) - doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm kim loại - tại KCN Minh Hưng (Bình Phước) và của Tập đoàn Ojitex (Nhật Bản) tại KCN Lộc An - Bình Sơn (Đồng Nai).

Cùng với đó, Công ty Top Sports Textiles (Quần đảo Virgin) và CPV Foods (Thái Lan) cũng đã có những khoản đầu tư thành công với trị giá lần lượt là 48 triệu USD và 36 triệu USD vào các khu công nghiệp ở Tây Ninh và Bình Phước.

Một tín hiệu tích cực trong 10 tháng đầu năm nay là Chỉ số Quản lý thu mua (PMI) tăng trở lại, vượt ngưỡng 50 điểm (sau khi lao dốc về mức 40,2 điểm vào tháng 7 và 8/2021) và đạt 52,1 điểm.

Bên cạnh đó, Chỉ số sản xuất Công nghiệp (IIP) giảm chậm lại trong tháng 10, chỉ sụt 1,6% so với năm ngoái, và thấp hơn mức giảm 7,5% của tháng 9. Do đó, trung bình 10 tháng đầu năm nay, sản lượng công nghiệp tăng 3,3% so với cùng kỳ năm ngoái.

Phân tích của Savills cho thấy sản lượng công nghiệp giảm 4 tháng liên tiếp khi số ca nhiễm tăng cao và làm gián đoạn chuỗi cung ứng.

Giá thuê vẫn tăng khoảng 10%

Theo đánh giá của Bộ Xây dựng, từ đầu năm đến nay, đặc biệt là quý III vừa qua, việc tái bùng phát dịch Covid-19 với nhiều diễn biến phức tạp đã khiến thị trường bất động sản chao đảo.

Hoạt động giãn cách xã hội kéo dài, chuỗi sản xuất, cung ứng bị đứt gãy, xuất nhập khẩu đình trệ khiến một số doanh nghiệp phải chuyển dịch đơn hàng khỏi Việt Nam để ứng phó với tình hình dịch bệnh.

Tùy vào mức độ ảnh hưởng của dịch Covid-19, bất động sản công nghiệp hình thành nên những bức tranh khác nhau giữa hai miền Bắc - Nam.

Ghi nhận của Savills Việt Nam trong 3 quý đầu năm 2021 cho thấy tại các khu công nghiệp phía Bắc, tỷ lệ lấp đầy bình quân đạt 87%, tăng 2,3%. Giá thuê đất bình quân 100 USD/m2, tăng 9,8% so với cùng kỳ năm ngoái.

Giá thuê đất cao nhất là Hà Nội với 129 USD/m2, tăng 1%. Tiếp đến là Bắc Ninh với 106 USD/m2, tăng 11%. Hưng Yên có giá thuê đất là 101 USD/m2, tăng 22%. Tại Hải Dương, giá thuê đạt 79 USD/m2, tăng 4%. Tỷ lệ lấp đầy tại các địa phương này đạt khoảng từ 86-91%.

Giá thuê kho xưởng xây sẵn bình quân đạt 4,6 USD/m2/tháng, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm ngoái.

Tại các tỉnh phía Nam, tỷ lệ lấp đầy bình quân ở các khu công nghiệp ở mức 87%, tăng 2,3%. Giá thuê đất bình quân đạt 115 USD/m2, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm ngoái.

Tỷ lệ lấp đầy tại các khu công nghiệp ở phía Bắc và phía Nam đều đạt trên 84%. Ảnh: Quỳnh Danh.

Giá thuê đất cao nhất tại TP.HCM 161 USD/m2, tăng 9% so với cùng kỳ năm ngoái, tỷ lệ lấp đầy 100%. Tiếp đến là Long An với 138 USD/m2, Bình Dương với 108 USD/m2, Đồng Nai với 104 USD/m2. Đặc biệt, tại Bà Rịa - Vũng Tàu giá thuê tăng tới 45% lên mức 94 USD/m2.

Giá thuê kho xưởng xây sẵn bình quân đạt 4,7 USD/m2/tháng, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm ngoái.

Bình luận về tiềm năng của thị trường, Savills cho rằng để bắt kịp chuỗi cung ứng và thực hiện chiến lược 4.0, ngành sản xuất có thể đạt mức tăng trưởng 16% vào năm 2030 nếu các doanh nghiệp vừa và nhỏ bắt đầu triển khai các công nghệ cấp trung bình. Việc ứng dụng các công nghệ mới có thể giúp lĩnh vực này tăng thêm 7-14 tỷ USD.

Ông John Campbell, Trưởng bộ phận dịch vụ bất động sản công nghiệp Savills Việt Nam, đánh giá kế hoạch mở cửa trở lại của Chính phủ đã củng cố niềm tin cho doanh nghiệp và nhà đầu tư.

Việc mở cửa những chuyến bay quốc tế sẽ là một trong những yếu tố tiên quyết cho một năm 2022 thành công, hứa hẹn tình hình phát triển công nghiệp của quý IV sẽ khả quan hơn so với 3 quý đầu năm.

"Cùng với kế hoạch mở cửa trở lại, việc Chính phủ luôn đồng hành, hỗ trợ nhiệt tình các nhà đầu tư nước ngoài cũng hứa hẹn khả năng phục hồi và thích ứng tuyệt đối của các doanh nghiệp địa phương. Điều này đã vẽ nên một bức tranh trấn an rằng Việt Nam không chỉ phục hồi mà còn trở lại mạnh mẽ hơn bao giờ hết", ông John Campbell nhấn mạnh.

Hà Bùi

Hot Auto Trade Bot Phương Thức Thanh Toán
BROKERS ĐƯỢC CẤP PHÉP
net_home_top Ai VIF
01-05-2024 10:45:17 (UTC+7)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

GBP/USD

1.2475

-0.0015 (-0.12%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

USD/JPY

157.91

+0.12 (+0.07%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

AUD/USD

0.6469

-0.0003 (-0.05%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

USD/CAD

1.3780

+0.0003 (+0.03%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (7)

Sell (0)

EUR/JPY

168.32

+0.10 (+0.06%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

EUR/CHF

0.9808

+0.0001 (+0.01%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (2)

Gold Futures

2,295.80

-7.10 (-0.31%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Silver Futures

26.677

+0.023 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (2)

Sell (10)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Copper Futures

4.5305

-0.0105 (-0.23%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (8)

Sell (1)

Crude Oil WTI Futures

81.14

-0.79 (-0.96%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Brent Oil Futures

85.62

-0.71 (-0.82%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (1)

Sell (11)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Natural Gas Futures

1.946

-0.009 (-0.46%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (5)

US Coffee C Futures

213.73

-13.77 (-6.05%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

Euro Stoxx 50

4,920.55

-60.54 (-1.22%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

S&P 500

5,035.69

-80.48 (-1.57%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

DAX

17,921.95

-196.37 (-1.08%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

FTSE 100

8,144.13

-2.90 (-0.04%)

Summary

Sell

Moving Avg:

Buy (5)

Sell (7)

Indicators:

Buy (2)

Sell (4)

Hang Seng

17,763.03

+16.12 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

US Small Cap 2000

1,973.05

-42.98 (-2.13%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

IBEX 35

10,854.40

-246.40 (-2.22%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (6)

Sell (6)

Indicators:

Buy (3)

Sell (3)

BASF SE NA O.N.

49.155

+0.100 (+0.20%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Bayer AG NA

27.35

-0.24 (-0.87%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (8)

Allianz SE VNA O.N.

266.60

+0.30 (+0.11%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (5)

Adidas AG

226.40

-5.90 (-2.54%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (7)

Deutsche Lufthansa AG

6.714

-0.028 (-0.42%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (9)

Sell (1)

Siemens AG Class N

175.90

-1.74 (-0.98%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Deutsche Bank AG

15.010

-0.094 (-0.62%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (6)

Sell (2)

    EUR/USD 1.0658 ↑ Sell  
    GBP/USD 1.2475 ↑ Sell  
    USD/JPY 157.91 ↑ Buy  
    AUD/USD 0.6469 Neutral  
    USD/CAD 1.3780 ↑ Buy  
    EUR/JPY 168.32 ↑ Buy  
    EUR/CHF 0.9808 Neutral  
    Gold 2,295.80 ↑ Sell  
    Silver 26.677 ↑ Sell  
    Copper 4.5305 ↑ Buy  
    Crude Oil WTI 81.14 ↑ Sell  
    Brent Oil 85.62 ↑ Sell  
    Natural Gas 1.946 ↑ Sell  
    US Coffee C 213.73 ↑ Sell  
    Euro Stoxx 50 4,920.55 ↑ Sell  
    S&P 500 5,035.69 ↑ Sell  
    DAX 17,921.95 ↑ Sell  
    FTSE 100 8,144.13 Sell  
    Hang Seng 17,763.03 ↑ Sell  
    Small Cap 2000 1,973.05 ↑ Sell  
    IBEX 35 10,854.40 Neutral  
    BASF 49.155 ↑ Sell  
    Bayer 27.35 ↑ Sell  
    Allianz 266.60 ↑ Sell  
    Adidas 226.40 ↑ Sell  
    Lufthansa 6.714 Neutral  
    Siemens AG 175.90 ↑ Sell  
    Deutsche Bank AG 15.010 Neutral  
Mua/Bán 1 chỉ SJC
# So hôm qua # Chênh TG
SJC Eximbank8,300/ 8,500
(8,300/ 8,500) # 1,298
SJC 1L, 10L, 1KG8,300/ 8,520
(0/ 0) # 1,510
SJC 1c, 2c, 5c7,380/ 7,550
(0/ 0) # 540
SJC 0,5c7,380/ 7,560
(0/ 0) # 550
SJC 99,99%7,370/ 7,470
(0/ 0) # 460
SJC 99%7,196/ 7,396
(0/ 0) # 386
Cập nhật 01-05-2024 10:45:19
Xem lịch sử giá vàng SJC: nhấn đây!
ↀ Giá vàng thế giới
$2,285.72 -47.5 -2.04%
Live 24 hour Gold Chart
ʘ Giá bán lẻ xăng dầu
Sản phẩm Vùng 1 Vùng 2
RON 95-V25.44025.940
RON 95-III24.91025.400
E5 RON 92-II23.91024.380
DO 0.05S20.71021.120
DO 0,001S-V21.32021.740
Dầu hỏa 2-K20.68021.090
ↂ Giá dầu thô thế giới
WTI $80.83 +3.39 0.04%
Brent $85.50 +3.86 0.05%
$ Tỷ giá Vietcombank
Ngoại tệMua vàoBán ra
USD25.088,0025.458,00
EUR26.475,3627.949,19
GBP30.873,5232.211,36
JPY156,74166,02
KRW15,9219,31
Cập nhật lúc 10:45:15 01/05/2024
Xem bảng tỷ giá hối đoái
Phương Thức Thanh Toán