net_left Kdata Phương Thức Thanh Toán
Phương Thức Thanh Toán

Các ngân hàng có kế hoạch chia cổ tức đã đến giai đoạn nào? Thị trường 5/7

Theo Dong Hai AiVIF.com – Một số ngân hàng có kế hoạch phát hành cổ phiếu trả cổ tức trong năm nay, trong đó có ngân hàng trả cổ tức với tỷ lệ lên đến 35%. Song, cũng có ngân...
Các ngân hàng có kế hoạch chia cổ tức đã đến giai đoạn nào? Thị trường 5/7 © Reuters

Theo Dong Hai

AiVIF.com – Một số ngân hàng có kế hoạch phát hành cổ phiếu trả cổ tức trong năm nay, trong đó có ngân hàng trả cổ tức với tỷ lệ lên đến 35%. Song, cũng có ngân hàng bất ngờ thay đổi kế hoạch ban đầu. Vậy tiến trình chia cổ tức tại các ngân hàng đến giai đoạn nào và sẽ như thế nào? Nhận định từ VNDirect: GDP sẽ tăng 7% nửa cuối năm, dự trữ ngoại hối có thể đạt 112 tỷ USD. Dưới đây là nội dung chi tiết 2 tin tức đáng chú ý trong phiên giao dịch hôm nay thứ Hai ngày 5/7.

1. Các ngân hàng có kế hoạch chia cổ tức đã đến giai đoạn nào?

Trong năm nay, có tới 15 ngân hàng có kế hoạch phát hành cổ phiếu trả cổ tức. Trong đó, đã có 4 ngân hàng hoàn tất việc phát hành cổ phiếu trả cổ tức bao gồm Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB (HM:ACB)), Ngân hàng TMCP Viêt Nam Thương Tín (Vietbank), Ngân hàng TMCP Sài Gòn ( SHB (HN:SHB)). Theo kế hoạch chi trả cổ tức trong năm nay, hầu hết ngân hàng thực hiện chia bằng phát hành cổ phiếu, duy chỉ có Vietcombank (HM:VCB) và VietinBank sẽ chia một phần bằng tiền mặt với tỷ lệ lần lượt là 8% và 5% (Kế hoạch của Vietcombank đang chờ phê duyệt).

Ở khối ngân hàng quốc doanh, trong khi kế hoạch chia cổ tức của VietinBank đã chính thức được duyệt thì kế hoạch của Vietcombank và BIDV (HM:BID) vẫn đang trong thời gian chờ đợi. Vietcombank dự kiến sẽ thực hiện trả cổ tức với 8% cổ tức bằng tiền mặt và 27,6% cổ tức bằng cổ phiếu từ nguồn lợi nhuận giữ lại những năm qua. Còn BIDV dự kiến phát hành hơn 207 triệu cổ phiếu để trả cổ tức năm 2019 với tỷ lệ 5,2%,và hơn 281 triệu cổ phiếu để trả cổ tức năm 2020, tỷ lệ 7%.

Ở khối ngân hàng tư nhân, MB đang dẫn đầu về tỷ lệ chia cổ tức bằng cổ phiếu với mức 35%, cổ đông nắm giữ 100 cổ phiếu MBB (HM:MBB) tại ngày chốt quyền sẽ được nhận 35 cổ phiếu mới. Gần 980 triệu cổ phiếu MBB sẽ được phát hành theo kế hoạch này, ngày  đăng ký cuối cùng nhận cổ tức được ấn định là ngày 13/7. MSB sẽ là ngân hàng có mức chi trả cổ tức bằng cổ phiếu cao thứ hai với tỷ lệ 30%, thời gian tiến hành chia cổ tức sẽ diến ra vào khoảng 30/5 - 1/6, sau khi bán cổ phiếu ESOP cho nhân viên. Tuy nhiên tới nay MSB mới công bố kế hoạch bán cổ phiếu ESOP vẫn chưa có thông báo chính thức nào được đưa ra về ngày chốt quyền chia cổ tức. Như vậy trong danh sách, OCB, HDBank (HM:HDB) và ACB sẽ là ba ngân hàng có cùng tỷ lệ chia cổ tức bằng cổ phiếu trong năm nay với tỷ lệ là 25%.

Ngoài ra, các ngân hàng khác cũng liên tục triển khai kế hoạch chia cổ tức thời gian gần đây.

  • SeABank vừa được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chấp thuận phương án tăng vốn điều lệ  thông qua trả cổ tức bằng cổ phiếu tỷ lệ 9,12% và phát hành cho cổ đông hiện hữu 136 triệu cổ phiếu với tỷ lệ 11,25%.
  • Bac A Bank cũng được NHNN chấp thuận tăng vốn thông qua phát hành 44,6 triệu cổ phiếu phổ thông để trả cổ tức với tỷ lệ 6,3%. Theo ngân hàng, số cổ phiếu mới này sẽ không bị hạn chế chuyển nhượng.
  • Kienlongbank cũng sẽ hoàn thành việc tăng vốn điều lệ từ phát hành gần 41,6 triệu cổ phiếu để trả cổ tức tỷ lệ 13% chậm nhất là 30/9 sau khi được NHNN và Ủy ban Chứng khoán Nhà Nước Việt Nam chấp thuận.
  • Một số cái tên còn lại góp mặt trong danh sách chia cổ tức  là Nam A Bank (tỷ lệ 10,2%) và Saigonbank (tỷ lệ 5%). VPBank (HM:VPB) đã bất ngờ ra thông báo lấy ý kiến cổ đông về việc chia cổ tức bằng cổ phiếu. Dù vậy, tỷ lệ chia cổ tức vẫn còn là một ẩn số, trong khi đó ngày đăng ký cuối cùng đã được chốt vào 13/7.

Những ngân hàng không góp mặt trong hoạt động chia cổ tức trong giai đoạn này như:

  • Techcombank (HM:TCB) không còn là một cái tên xa lạ trong danh sách này khi đây là năm thứ 10 liên tiếp ngân hàng không thực hiện chia cổ tức cho cổ đông. Tuy nhiên, ngân hàng sẽ hướng đến kế hoạch đạt 20 tỷ USD vốn hoá, đưa tỷ lệ CASA lên 55%, ROE đạt 20% vào năm 2025.
  • Sacombank (HM:STB) không được phép chi trả cổ tức do vẫn đang thực hiện đề án tái cơ cấu đến năm 2025 từ năm 2015. Ngân hàng đã từng đề xuất được trả cổ tức nhưng chưa được NHNN chấp thuận.
  • VIB mặc dù ngân hàng không có kế hoạch chia cổ tức nhưng thay vào đó ngân hàng sẽ phát hành hơn 443 triệu cổ phiếu thưởng cho cổ đông cho cổ đông hiện hữu với tỷ lệ lên đến 40%, chốt ngày đăng ký cuối cùng là ngày 10/6.
  • Hai ngân hàng là TPBank và VPBank lại để ngỏ khả năng trả cổ tức của mình.

2. Nhận định từ VNDirect: GDP sẽ tăng 7% nửa cuối năm, dự trữ ngoại hối có thể đạt 112 tỷ USD

VNDirect nhận định việc mở rộng sản xuất nhờ nhu cầu phục hồi tại Hoa Kỳ và EU, ngành dịch vụ phục hồi hậu COVID-19 cùng với việc tiêm vắc xin được triển khai mạnh mẽ hơn tại Việt Nam là những động lực có thể giúp GDP tăng 7% nửa cuối năm.

Trong báo cáo chiến lược của CTCP Chứng khoán VNDirect, đơn vị này dự báo dự báo nửa cuối năm, GDP của Việt Nam có thể đạt mức tăng 7% so với cùng kỳ năm 2020 (2,6%), qua đó kéo mức tăng trưởng cả năm nay lên 6,5%. Các yếu tố hỗ trợ cho mức tăng trưởng GDP cao hơn cho nửa cuối năm 2021 bao gồm việc mở rộng sản xuất nhờ nhu cầu phục hồi tại Hoa Kỳ và EU, kỳ vọng ngành dịch vụ sẽ phục hồi hậu COVID-19 cùng với việc tiêm vắc xin được triển khai mạnh mẽ hơn tại Việt Nam.

Lạm phát Việt Nam có thể được kiểm soát trong nửa cuối năm 2021 nhờ chỉ số CPI lương thực giảm trong bối cảnh giá thịt lợn giảm và Chính phủ áp dụng các biện pháp kiểm soát lạm phát hiệu quả như giảm giá điện, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô. VNDirect giữ nguyên dự báo CPI bình quân năm 2021 tăng 2,9% so với năm trước.

Về tình hình xuất khẩu, một số thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam đang thực hiện các bước tiếp theo để mở cửa lại nền kinh tế, bao gồm Mỹ và Anh. Kỳ vọng nhu cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ cao hơn trong nửa cuối năm 2021 nhờ nhu cầu toàn cầu phục hồi, đặc biệt là các máy móc thiết bị, đồ gỗ, dệt may và thủy sản. Với tốc độ giải ngân vốn đầu tư công, giai đoạn 2021-2022 khó có thể duy trì mức tăng trưởng đột biến như năm 2020 (tăng 34,5%), tuy nhiên, vẫn sẽ duy trì mức tăng trưởng dương khoảng 8-12% trong giai đoạn 2021-2022.

VNDirect cũng đưa ra nhận định về lãi suất tiền gửi sẽ tăng nhẹ 25-30 điểm % trong nửa cuối năm 2021 do nhu cầu tín dụng tăng nhờ sự phục hồi của nền kinh tế, áp lực lạm phát cao hơn về cuối năm và các ngân hàng thương mại cần duy trì mức lãi suất hấp dẫn để cạnh tranh huy động vốn với các kênh đầu tư khác như bất động sản, chứng khoán. Dự báo mặt bằng lãi suất tín dụng sẽ duy trì ở mức ổn định cho đến hết năm 2021 nhằm hỗ trợ tăng trưởng.

Với dự trữ ngoại hối, hiện đạt 100 tỷ USD, dựa trên ước tính của VNDirect, tương đương kim ngạch nhập khẩu 4 tháng và chiếm gần 1/4 GDP. Kỳ vọng Việt Nam sẽ duy trì thặng dư thương mại, thặng dư tài khoản vãng lai và tiếp tục tăng dự trữ ngoại hối lên mức 112 tỷ USD vào cuối năm 2021.

Các yếu tố ngăn đà tăng giá của tiền VND (HN:VND) so với đông USD trong 6 tháng cuối năm 2021 bao gồm USD có thể giành lại vị thế từ quý III sau khi FED có ý định thu hép dần gói nới lỏng định lượng (QE) kể từ đầu năm 2022. Ngoài ra là việc lạm phát trong nước tăng trở lại và thâm hụt thương mại 473 triệu USD trong 5 tháng đầu năm. Mặc dù VNDirect cho rằng tiền VND tiếp tục được hỗ trợ bởi nền tảng vĩ mô vững chắc và sự phục hồi của dòng vốn FDI, tuy nhiên quan điểm lạc quan đối với sự tăng giá của tiền VND vào đầu năm nay giờ đã trở nên trung lập hơn.

Bên cạnh đó cũng có một số rủi ro với nền kinh tế nửa cuối năm:

  • Trong nước, áp lực lạm phát tăng lên và việc chậm triển khai tiêm vắc xin ngừa COVID-19 có thể khiến Việt Nam chậm mở cửa trở lại toàn bộ nền kinh tế và đánh mất lợi thế cạnh tranh vào tay các quốc gia khác trong khu vực.
  • Bên ngoài, việc FED dự kiến thu hẹp gói nới lỏng định lượng (QE) kể từ đầu năm 2020 có thể ảnh hưởng đến triển vọng kinh tế của các nước mới nổi và đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Ngoài ra, vẫn đề địa chính trị đã tăng lên trong quý II khi xung đột gia tăng ở Trung Đông và căng thẳng giữa Trung - Mỹ có thể làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu chip bán dẫn trên toàn cầu.
Hot Auto Trade Bot Phương Thức Thanh Toán
BROKERS ĐƯỢC CẤP PHÉP
net_home_top Ai VIF
01-05-2024 10:45:17 (UTC+7)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

GBP/USD

1.2475

-0.0015 (-0.12%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

USD/JPY

157.91

+0.12 (+0.07%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

AUD/USD

0.6469

-0.0003 (-0.05%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

USD/CAD

1.3780

+0.0003 (+0.03%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (7)

Sell (0)

EUR/JPY

168.32

+0.10 (+0.06%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

EUR/CHF

0.9808

+0.0001 (+0.01%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (2)

Gold Futures

2,295.80

-7.10 (-0.31%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Silver Futures

26.677

+0.023 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (2)

Sell (10)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Copper Futures

4.5305

-0.0105 (-0.23%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (8)

Sell (1)

Crude Oil WTI Futures

81.14

-0.79 (-0.96%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Brent Oil Futures

85.62

-0.71 (-0.82%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (1)

Sell (11)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Natural Gas Futures

1.946

-0.009 (-0.46%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (5)

US Coffee C Futures

213.73

-13.77 (-6.05%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

Euro Stoxx 50

4,920.55

-60.54 (-1.22%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

S&P 500

5,035.69

-80.48 (-1.57%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

DAX

17,921.95

-196.37 (-1.08%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

FTSE 100

8,144.13

-2.90 (-0.04%)

Summary

Sell

Moving Avg:

Buy (5)

Sell (7)

Indicators:

Buy (2)

Sell (4)

Hang Seng

17,763.03

+16.12 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

US Small Cap 2000

1,973.05

-42.98 (-2.13%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

IBEX 35

10,854.40

-246.40 (-2.22%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (6)

Sell (6)

Indicators:

Buy (3)

Sell (3)

BASF SE NA O.N.

49.155

+0.100 (+0.20%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Bayer AG NA

27.35

-0.24 (-0.87%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (8)

Allianz SE VNA O.N.

266.60

+0.30 (+0.11%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (5)

Adidas AG

226.40

-5.90 (-2.54%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (7)

Deutsche Lufthansa AG

6.714

-0.028 (-0.42%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (9)

Sell (1)

Siemens AG Class N

175.90

-1.74 (-0.98%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Deutsche Bank AG

15.010

-0.094 (-0.62%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (6)

Sell (2)

    EUR/USD 1.0658 ↑ Sell  
    GBP/USD 1.2475 ↑ Sell  
    USD/JPY 157.91 ↑ Buy  
    AUD/USD 0.6469 Neutral  
    USD/CAD 1.3780 ↑ Buy  
    EUR/JPY 168.32 ↑ Buy  
    EUR/CHF 0.9808 Neutral  
    Gold 2,295.80 ↑ Sell  
    Silver 26.677 ↑ Sell  
    Copper 4.5305 ↑ Buy  
    Crude Oil WTI 81.14 ↑ Sell  
    Brent Oil 85.62 ↑ Sell  
    Natural Gas 1.946 ↑ Sell  
    US Coffee C 213.73 ↑ Sell  
    Euro Stoxx 50 4,920.55 ↑ Sell  
    S&P 500 5,035.69 ↑ Sell  
    DAX 17,921.95 ↑ Sell  
    FTSE 100 8,144.13 Sell  
    Hang Seng 17,763.03 ↑ Sell  
    Small Cap 2000 1,973.05 ↑ Sell  
    IBEX 35 10,854.40 Neutral  
    BASF 49.155 ↑ Sell  
    Bayer 27.35 ↑ Sell  
    Allianz 266.60 ↑ Sell  
    Adidas 226.40 ↑ Sell  
    Lufthansa 6.714 Neutral  
    Siemens AG 175.90 ↑ Sell  
    Deutsche Bank AG 15.010 Neutral  
Mua/Bán 1 chỉ SJC
# So hôm qua # Chênh TG
SJC Eximbank8,300/ 8,500
(8,300/ 8,500) # 1,298
SJC 1L, 10L, 1KG8,300/ 8,520
(0/ 0) # 1,510
SJC 1c, 2c, 5c7,380/ 7,550
(0/ 0) # 540
SJC 0,5c7,380/ 7,560
(0/ 0) # 550
SJC 99,99%7,370/ 7,470
(0/ 0) # 460
SJC 99%7,196/ 7,396
(0/ 0) # 386
Cập nhật 01-05-2024 10:45:19
Xem lịch sử giá vàng SJC: nhấn đây!
ↀ Giá vàng thế giới
$2,285.72 -47.5 -2.04%
Live 24 hour Gold Chart
ʘ Giá bán lẻ xăng dầu
Sản phẩm Vùng 1 Vùng 2
RON 95-V25.44025.940
RON 95-III24.91025.400
E5 RON 92-II23.91024.380
DO 0.05S20.71021.120
DO 0,001S-V21.32021.740
Dầu hỏa 2-K20.68021.090
ↂ Giá dầu thô thế giới
WTI $80.83 +3.39 0.04%
Brent $85.50 +3.86 0.05%
$ Tỷ giá Vietcombank
Ngoại tệMua vàoBán ra
USD25.088,0025.458,00
EUR26.475,3627.949,19
GBP30.873,5232.211,36
JPY156,74166,02
KRW15,9219,31
Cập nhật lúc 10:45:15 01/05/2024
Xem bảng tỷ giá hối đoái
Phương Thức Thanh Toán