net_left Kdata Phương Thức Thanh Toán
Phương Thức Thanh Toán

Các ngân hàng siết chặt cho vay kinh doanh BĐS. Thị trường 27/8

Theo Dong Hai AiVIF.com – Thị trường Việt Nam kết thúc tuần cuối tháng 8 với những thông tin mới nào? Các ngân hàng siết chặt cho vay kinh doanh BĐS, kịch bản nào cho xuất khẩu...
Các ngân hàng siết chặt cho vay kinh doanh BĐS. Thị trường 27/8 © Reuters

Theo Dong Hai

AiVIF.com – Thị trường Việt Nam kết thúc tuần cuối tháng 8 với những thông tin mới nào? Các ngân hàng siết chặt cho vay kinh doanh BĐS, kịch bản nào cho xuất khẩu gỗ từ nay đến cuối năm? Và giá phân bón có thể giảm dần do nguồn cung tăng trở lại? Dưới đây là nội dung chi tiết 3 thông tin trong phiên giao dịch hôm nay thứ Sáu ngày 27/8.

1. Các ngân hàng siết chặt cho vay kinh doanh BĐS

Theo báo cáo tài chính bán niên đã kiểm toán, nhiều ngân hàng đã giảm dư nợ cho vay hoạt động kinh doanh bất động sản trong 6 tháng đầu năm 2021.

  • BCTC của Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt (HM:LPB) cho biết, dư nợ cho vay hoạt động kinh doanh bất động sản của ngân hàng giảm tới 52% trong nửa đầu năm xuống còn 1.672 tỷ đồng. Theo đó, tỷ trọng của dư nợ cho vay BĐS tại ngân hàng này chỉ còn 0,87%.
  • Tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (HM:VPB), dư nợ cho vay hoạt động kinh doanh bất động sản cũng giảm 12% xuống 32.422 tỷ đồng. Trong khi đó, dòng tiền vẫn chảy mạnh vào cho vay cá nhân để mua nhà ở, nhận quyền sử dụng đất, dư nợ tăng 26% lên hơn 45.800 tỷ đồng.
  • Tương tự, dư nợ hoạt động kinh doanh bất động sản tại ABBank giảm 13% xuống 2.694 tỷ đồng.
  • Còn tại Ngân hàng TMCP Quân đội (HM:MBB), dư nợ cho vay hoạt động kinh doanh bất động sản giảm nhẹ 75 tỷ đồng xuống 9.320 tỷ đồng. Trong khi đó, MB đẩy mạnh tín dụng chảy vào các lĩnh vực khác như hoạt động làm thuê hộ gia đình; cho vay bán buôn bán lẻ, ô tô, xe máy; công nghiệp chế biến chế tạo. Tổng dư nợ tín dụng chung của MB tăng 10,9% trong nửa đầu năm và đạt hơn 314.900 tỷ đồng. Hiện cho vay kinh doanh bất động sản chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ tại MB, chỉ 3,31%.
  • Tại một số ngân hàng khác, dư nợ tín dụng bất động sản tiếp tục tăng trong nửa đầu năm 2021, tuy nhiên mức tăng trưởng thấp hơn so với mặt bằng chung của dư nợ toàn nền kinh tế. Chẳng hạn tại Ngân hàng TMCP Á Châu (HM:ACB), dư nợ cho vay hoạt động tư vấn và kinh doanh bất động sản tăng 3,7% lên 4.915 tỷ đồng. Mức tăng này thấp hơn so với mặt bằng chung, tổng tín dụng các lĩnh vực kinh tế tại ACB tăng 9,4% trong 6 tháng đầu năm, đạt 336.652 tỷ đồng. Hiện lĩnh vực bất động sản chỉ chiếm 1,46% trong tổng dư nợ cho vay của ACB.

Bên cạnh đó, vẫn có một số ngân hàng đẩy mạnh cho vay kinh doanh bất động sản trong nửa đầu năm. Chẳng hạn tại Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (HM:TCB), dư nợ hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 11% lên hơn 101 nghìn tỷ đồng. Ngân hàng TMCP Tiên Phong (HM:TPB) cũng ghi nhận dư nợ cho vay ở lĩnh vực này tăng 10,7% lên 8.984 tỷ đồng.

Tại cuộc điều tra xu hướng tín dụng của các tổ chức tín dụng do Vụ Dự báo, Thống kê - Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện, các TCTD cho biết sẽ nới lỏng nhẹ tiêu chuẩn tín dụng tổng thể của đơn vị mình đối với hầu hết các nhóm khách hàng trong 6 tháng cuối năm 2021. Tuy nhiên, các ngân hàng vẫn dự kiến thắt chặt đối với lĩnh vực Đầu tư kinh doanh chứng khoán, Đầu tư kinh doanh bất động sản, Kinh doanh tài chính, ngân hàng và bảo hiểm và Đầu tư, kinh doanh du lịch.

Trong đợt giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp và người dân mới đây, một số ngân hàng cũng cho biết không áp dụng cho dư nợ cho vay kinh doanh bất động sản. Đối tượng ưu tiên giảm lãi suất chủ yếu là những doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lưu trú, nhà hàng, doanh nghiệp sản xuất thiết yếu cho nền kinh tế.

Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (HM:VCB) – "ông lớn" ngân hàng mới đây cho biết sẽ tiếp tục giảm lãi suất tới 0,5%/năm cho toàn bộ dư nợ vay của khách hàng tại Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương và giảm lãi suất tới 0,3%/năm cho toàn bộ dư nợ vay của khách hàng tại các địa bàn tỉnh, thành phố phía Nam khác áp dụng giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, nhà băng này lưu ý, việc giảm lãi suất trên không áp dụng với các khoản vay chứng khoán, vay kinh doanh bất động sản, vay cầm cố giấy tờ có giá…

Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp bất động sản cho biết đang có nhiều khó khăn phải đối mặt do dịch Covid-19 và kiến nghị ngân hàng cũng giảm lãi suất hỗ trợ. Tại một Tọa đàm trực tuyến mới đây, bà Nguyễn Thị Thanh Hương, Tổng giám đốc Công ty Đại Phúc Land cho biết công ty bất động sản đang có nhiều khó khăn, nhất là vấn đề dòng tiền. Doanh thu ngưng trệ, không thu về lợi nhuận mà lãi suất ngân hàng và lãi từ vay các nguồn khác vẫn phải trả theo tháng. Theo đó, bà Hương cho rằng, các ngân hàng cần xem xét giảm lãi suất, khoanh nợ và giảm để chủ đầu tư có thêm nguồn lực phát triển dự án nhằm đưa ra sản phẩm vào quý 4 năm nay. Còn với những doanh nghiệp môi giới, để có thể duy trì được hoạt động cần chi trả chi phí mặt bằng, nhân viên, cũng rất cần đến vốn vay để trả lương. Hiện nay nguồn vốn vay để trả lương mà các doanh nghiệp tiếp cận được rất thấp.

Hầu hết các chủ đầu tư đều sử dụng nguồn vốn vay từ ngân hàng và các hình thức huy động tài chính khác. Trong trạng thái bình thường khi dòng tiền ổn định thì khả năng trả nợ vay được đảm bảo. Tuy nhiên, trong tình huống hiện nay khi doanh thu và dòng tiền sụt giảm nghiêm trọng thì áp lực tài chính lên các chủ đầu tư là vô cùng lớn và rủi ro cao.

Trước đó, HoREA (Hiệp hội Bất động sản Tp.HCM (HM:HCM)) cũng có văn bản đề nghị Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại xem xét hỗ trợ các doanh nghiệp, bao gồm giảm lãi suất cho vay khoảng 2%/năm cho các doanh nghiệp bất động sản, nhà đầu tư, khách hàng vay mua nhà. Các ngân hàng thương mại được đề nghị xem xét không chuyển nhóm nợ (xấu hơn) đối với các khoản vay đến hạn. Đồng thời, HoREA đề nghị các NHTM xem xét, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp bất động sản được tiếp cận các khoản vay mới để triển khai thực hiện dự án.

Nhiều chuyên gia cho biết, lãi suất cho vay bất động sản hiện nay đã rất thấp trong nhiều năm, nếu tiếp tục giảm nữa, nguy cơ rủi ro cho thị trường là rất cao. Các đợt sốt đất thời gian qua cũng sẽ khiến nhà băng e ngại rót tiền vào lĩnh vực này. Ngân hàng Nhà nước cũng nhiều lần cho biết tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng chảy vào các lĩnh vực rủi ro trong đó có bất động sản. Dù vậy, hiện nhiều ngân hàng vẫn có chính sách giảm lãi vay hướng đến ưu đãi cho người có nhu cầu mua nhà để ở thật, đồng thời thẩm định kỹ càng để tránh nới lỏng cho giới đầu cơ.

2. Kịch bản nào cho xuất khẩu gỗ từ nay đến cuối năm?

Trong báo cáo "Tác động của đại dịch Covid-19 đến ngành gỗ: Thực trạng 8 tháng đầu năm và kịch bản cho các tháng cuối năm 2021" do nhóm nghiên cứu của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VINFOREST), Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ Bình Dương (BIFA), Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Bình Định (FPA), Hiệp hội và Tổ chức Forest Trends công bố mới đây đã đưa ra những nhận định mới về kịch bản cho ngành gỗ Việt Nam. Theo đó, báo cáo đánh giá Covid-19 gây ra nhiều khó khăn đối với ngành gỗ khi các trung tâm chế biến lớn như Bình Dương, Đồng Nai, TP.HCM, Bình Định bị ảnh hưởng nặng nề. Nhiều doanh nghiệp cố gắng duy trì sản xuất ở mức 20-50% so với trước thời điểm giãn cách nhằm đáp ứng phần nào yêu cầu của khách hàng và duy trì công việc cho người lao động.

Xuất khẩu gỗ theo đó cũng chịu tác động giảm mạnh. Số liệu từ tổng cục Hải quan cho thấy, kim ngạch xuất khẩu gỗ trong tháng 7 đạt gần 1,3 tỷ USD, giảm 17,3% so với tháng 6 và giảm sâu tại nhiều thị trường chính như  Mỹ (giảm 20,3%), Trung Quốc (giảm 23,4%), EU (giảm 19,7%)… Gần nhất, trong 15 ngày đầu tháng 8, kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này chỉ đạt 373,8 triệu, tương đương 45,5% so với nửa đầu tháng 7. Dựa trên các con số báo cáo và phân tích thị trường, nhóm nghiên cứu đã đưa ra 2 kịch bản tăng trưởng xuất khẩu gỗ những tháng cuối năm.

  • Kim ngạch xuất khẩu quý III tiếp tục đà giảm nhưng hồi phục vào quý IV. Nhóm nghiên cứu giả định rằng kim ngạch quý III tiếp tục giảm như hiện nay và kéo dài cho đến hết quý III, dịch bệnh sau đó được kiểm soát với sự phổ cập của vaccine trong toàn quốc. Với giả định trên, kim ngạch trong quý IV sẽ bắt đầu hồi phục, nhưng mức sẽ không thể tương đương với quý I và quý II mà chỉ đạt khoảng 70% so với kim ngạch trung bình của 2 quý đầu năm. Tổng kim ngạch của ngành năm nay sẽ đạt 13,55 tỷ USD. Kim ngạch trong các tháng cuối năm tiếp tục đà giảm như hiện nay do dịch không được kiểm soát hiệu quả
  • Kịch bản thứ 2 này dựa trên giả định rằng từ nay tới hết năm dịch bệnh vẫn chưa được kiểm soát hiệu quả. Đà suy giảm về sẽ tiếp tục kéo dài cho tới hết quý IV và kim ngạch xuất khẩu của quý IV chỉ tương đương 70% của quý III. Nói cách khác, giả định này cho rằng suy giảm kim ngạch xuất khẩu như hiện nay vẫn chưa chạm đáy mà sẽ còn tiếp tục giảm sâu ở các tháng cuối năm. Nếu giả định này xảy ra, kim ngạch xuất khẩu của cả ngành năm sẽ đạt con số khoảng 12,69 tỷ USD.

Với cả 2 kịch bản trên, kim ngạch xuất khẩu gỗ đều chưa chạm đến mục tiêu 14,5 tỷ USD đề ra.

3. Giá phân bón có thể giảm dần do nguồn cung tăng trở lại?

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, giá dầu được dự báo tiếp tục tăng khi các chính sách cách ly sẽ được giãn bỏ, sau thời gian được hưởng lợi do tận dụng được nguồn nguyên liệu đã nhập từ trước khi tăng giá, các nhà máy sản xuất bắt đầu phải nhập nguyên liệu với giá cao, tạo sức ép tăng giá thành phân bón. Tuy nhiên, do đang cuối vụ lúa hè thu, nhu cầu phân bón sẽ giảm, nguồn cung vẫn được đảm bảo từ sản xuất và nhập khẩu, nên dự báo giá phân bón có thể có xu hướng chững lại và giảm dần. Hiện năng lực sản xuất phân urê trong nước là 2,66 triệu tấn/năm, tiêu thụ khoảng 1,8 - 2 triệu tấn/năm, nên hoàn toàn đáp ứng nhu cầu, có thể xuất khẩu từ 500 - 660 tấn urê/năm. Từ đầu năm nay, do nhu cầu thị trường nội địa, sản xuất urê của các nhà máy mới chỉ đạt khoảng 87% công suất thiết kế, do giá urê nhập khẩu đang cao hơn so với giá urê sản xuất trong nước nên các nhà máy sẽ phát huy công suất tối đa, đẩy mạnh sản xuất cung ứng urê ra thị trường.

Hot Auto Trade Bot Phương Thức Thanh Toán
BROKERS ĐƯỢC CẤP PHÉP
net_home_top Ai VIF
01-05-2024 10:45:17 (UTC+7)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

GBP/USD

1.2475

-0.0015 (-0.12%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

USD/JPY

157.91

+0.12 (+0.07%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

AUD/USD

0.6469

-0.0003 (-0.05%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

USD/CAD

1.3780

+0.0003 (+0.03%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (7)

Sell (0)

EUR/JPY

168.32

+0.10 (+0.06%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

EUR/CHF

0.9808

+0.0001 (+0.01%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (2)

Gold Futures

2,295.80

-7.10 (-0.31%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Silver Futures

26.677

+0.023 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (2)

Sell (10)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Copper Futures

4.5305

-0.0105 (-0.23%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (8)

Sell (1)

Crude Oil WTI Futures

81.14

-0.79 (-0.96%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Brent Oil Futures

85.62

-0.71 (-0.82%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (1)

Sell (11)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Natural Gas Futures

1.946

-0.009 (-0.46%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (5)

US Coffee C Futures

213.73

-13.77 (-6.05%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

Euro Stoxx 50

4,920.55

-60.54 (-1.22%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

S&P 500

5,035.69

-80.48 (-1.57%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

DAX

17,921.95

-196.37 (-1.08%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

FTSE 100

8,144.13

-2.90 (-0.04%)

Summary

Sell

Moving Avg:

Buy (5)

Sell (7)

Indicators:

Buy (2)

Sell (4)

Hang Seng

17,763.03

+16.12 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

US Small Cap 2000

1,973.05

-42.98 (-2.13%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

IBEX 35

10,854.40

-246.40 (-2.22%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (6)

Sell (6)

Indicators:

Buy (3)

Sell (3)

BASF SE NA O.N.

49.155

+0.100 (+0.20%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Bayer AG NA

27.35

-0.24 (-0.87%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (8)

Allianz SE VNA O.N.

266.60

+0.30 (+0.11%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (5)

Adidas AG

226.40

-5.90 (-2.54%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (7)

Deutsche Lufthansa AG

6.714

-0.028 (-0.42%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (9)

Sell (1)

Siemens AG Class N

175.90

-1.74 (-0.98%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Deutsche Bank AG

15.010

-0.094 (-0.62%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (6)

Sell (2)

    EUR/USD 1.0658 ↑ Sell  
    GBP/USD 1.2475 ↑ Sell  
    USD/JPY 157.91 ↑ Buy  
    AUD/USD 0.6469 Neutral  
    USD/CAD 1.3780 ↑ Buy  
    EUR/JPY 168.32 ↑ Buy  
    EUR/CHF 0.9808 Neutral  
    Gold 2,295.80 ↑ Sell  
    Silver 26.677 ↑ Sell  
    Copper 4.5305 ↑ Buy  
    Crude Oil WTI 81.14 ↑ Sell  
    Brent Oil 85.62 ↑ Sell  
    Natural Gas 1.946 ↑ Sell  
    US Coffee C 213.73 ↑ Sell  
    Euro Stoxx 50 4,920.55 ↑ Sell  
    S&P 500 5,035.69 ↑ Sell  
    DAX 17,921.95 ↑ Sell  
    FTSE 100 8,144.13 Sell  
    Hang Seng 17,763.03 ↑ Sell  
    Small Cap 2000 1,973.05 ↑ Sell  
    IBEX 35 10,854.40 Neutral  
    BASF 49.155 ↑ Sell  
    Bayer 27.35 ↑ Sell  
    Allianz 266.60 ↑ Sell  
    Adidas 226.40 ↑ Sell  
    Lufthansa 6.714 Neutral  
    Siemens AG 175.90 ↑ Sell  
    Deutsche Bank AG 15.010 Neutral  
Mua/Bán 1 chỉ SJC
# So hôm qua # Chênh TG
SJC Eximbank8,300/ 8,500
(8,300/ 8,500) # 1,298
SJC 1L, 10L, 1KG8,300/ 8,520
(0/ 0) # 1,510
SJC 1c, 2c, 5c7,380/ 7,550
(0/ 0) # 540
SJC 0,5c7,380/ 7,560
(0/ 0) # 550
SJC 99,99%7,370/ 7,470
(0/ 0) # 460
SJC 99%7,196/ 7,396
(0/ 0) # 386
Cập nhật 01-05-2024 10:45:19
Xem lịch sử giá vàng SJC: nhấn đây!
ↀ Giá vàng thế giới
$2,285.72 -47.5 -2.04%
Live 24 hour Gold Chart
ʘ Giá bán lẻ xăng dầu
Sản phẩm Vùng 1 Vùng 2
RON 95-V25.44025.940
RON 95-III24.91025.400
E5 RON 92-II23.91024.380
DO 0.05S20.71021.120
DO 0,001S-V21.32021.740
Dầu hỏa 2-K20.68021.090
ↂ Giá dầu thô thế giới
WTI $80.83 +3.39 0.04%
Brent $85.50 +3.86 0.05%
$ Tỷ giá Vietcombank
Ngoại tệMua vàoBán ra
USD25.088,0025.458,00
EUR26.475,3627.949,19
GBP30.873,5232.211,36
JPY156,74166,02
KRW15,9219,31
Cập nhật lúc 10:45:15 01/05/2024
Xem bảng tỷ giá hối đoái
Phương Thức Thanh Toán