net_left Kdata Phương Thức Thanh Toán

Đến lúc nới tín dụng?

29 Tháng Mười Một 2022
Đến lúc nới tín dụng? Đến lúc nới tín dụng?
let atwWrapper,atwContainerWidth,atwSliderBox,atwTotalWidth; function initATWSlider() { atwWrapper = $('.relatedInstruments'); atwSliderBox = atwWrapper.find('.slider'); atwContainerWidth = atwWrapper.width(); atwTotalWidth = atwSliderBox.width(); if(window.domainId === '2' || window.domainId === '3'){ atwWrapper.find('.sliderRight').addClass('js-slider-prev'); atwWrapper.find('.sliderLeft').addClass('js-slider-next'); } else { atwWrapper.find('.sliderRight').addClass('js-slider-next'); atwWrapper.find('.sliderLeft').addClass('js-slider-prev'); } if(atwSliderBox.find('.instrumentBox').length > 6){ atwWrapper.find('.js-slider-next').fadeIn(600); } } function atwMoveRight() { atwWrapper.find('.js-slider-prev').fadeIn(150); $(".slider > :visible:first").hide(150) $(".slider > :visible:last").next().show(150); if(!$(".slider > :visible:last").next().find('.name')()){ atwWrapper.find('.js-slider-next').fadeOut(150); return; } } function atwMoveLeft() { atwWrapper.find('.js-slider-next').fadeIn(150); $(".slider > :visible:last").hide(150); $(".slider > :visible:first").prev().show(150); if(!$(".slider > :visible:first").prev().find('.name')()){ atwWrapper.find('.js-slider-prev').fadeOut(150); return; } } initATWSlider(); //update star icon on adding/removing instrument to/from specific watchlist atwWrapper.on('click', 'label.addRow', function() { let parent = $(this).parent(); let checkedPortfolio = false; parent.find('input[type=checkbox]').each(function () { if($(this).is(':checked')){ checkedPortfolio = true; } }); let closestStar = $(this).closest('.addToPortWrapper').find('.star'); if(checkedPortfolio){ closestStar.addClass('added'); }else{ closestStar.removeClass('added'); } }); //update star icon on creating new watchlist atwWrapper.find('.js-create-watchlist-portfolio').find('a.js-create').on('click',function () { let parent = $(this).parent(); let watchlistName = parent.find('input[type=text]').val(); if(!watchlistName){ return; } let star = $(this).closest('.addToPortWrapper').find('.star'); star.addClass('added'); }); //update star icon on adding new position atwWrapper.find('.js-create-holdings-portfolio').find('.js-submit').on('click',function () { let addPositionForm = $(this).closest('.addToPortfolioPop').find('.holdingsContent'); let amount = addPositionForm.find('.js-amount').val(); if(amount < 1){ return; } let star = $(this).closest('.addToPortWrapper').find('.star'); star.addClass('added'); }); atwWrapper.find('.instrumentBox').find('.shortInfo').on('click',function () { if(!window.ga){ return; } let pairId = $(this).parent().find('.js-add-to-portfolio').attr('data-pair-id'); let pairType = window.atwPairTypes[pairId]; window.ga('allSitesTracker.send', 'event', 'content', 'symbol link clicked', '', { "dimension147":"symbol_link_clicked", "dimension163":"click", "dimension148":"symbol", "dimension162":"content add to watchlist", "dimension161":"article page", "dimension142":"article", "dimension75":pairType, "dimension138":pairId, "dimension118":"2002819" }); window.open($(this).attr('data-href')); }); window.atwPairTypes = {"958731":"Equities","1043364":"Equities","1057644":"Equities"};

Vietstock - Đến lúc nới tín dụng?

Với mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm 2022 là 14%, rõ ràng dư địa để nới thêm tăng trưởng tín dụng vẫn còn. Trong tình hình thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang gặp nhiều vấn đề, các đợt phát hành mới khó thu hút người mua nên các doanh nghiệp càng mong muốn được tiếp cận kênh tín dụng ngân hàng…

Đầu tháng 10, Vietcombank (HM:VCB) được thêm hạn mức tăng trưởng tín dụng do đã tham gia cơ cấu lại các tổ chức tài chính yếu kém theo chủ trương của NHNN. Ảnh: THÀNH HOA

Vì sao cần nới?

Chỉ còn hơn một tháng nữa là kết thúc năm tài chính, do đó có lẽ đã đến lúc nhà điều hành xem xét nới thêm room tín dụng cho các ngân hàng, đặc biệt trong bối cảnh nguồn vốn tại nhiều doanh nghiệp đang bị tắc nghẽn trầm trọng, có thể ảnh hưởng đáng kể lên tăng trưởng kinh tế trong thời gian còn lại của năm nay cũng như cho giai đoạn tới, làm chậm lại đà phục hồi đang diễn biến khá thuận lợi trong thời gian gần đây.

Trước đó Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng đã có hai đợt nới room tín dụng cho một số ngân hàng thương mại. Đợt nới room đầu tiên diễn ra vào đầu tháng 9, với khoảng 18 ngân hàng thương mại được cấp thêm hạn mức tăng trưởng tín dụng. Lần gần đây nhất là vào đầu tháng 10, các ngân hàng VPBank (HM:VPB), HDBank (HM:HDB), MBBank và Vietcombank được thêm hạn mức tăng trưởng tín dụng, do đây là các ngân hàng đã tham gia cơ cấu lại các tổ chức tài chính yếu kém theo chủ trương của NHNN.

Theo số liệu của NHNN, dư nợ tín dụng toàn ngành kinh tế đến ngày 25-10 đã tăng 11,5% so với cuối năm ngoái, tương ứng với mức tăng tuyệt đối hơn 1,2 triệu tỉ đồng. Với mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm là 14%, dư địa để nới thêm tăng trưởng tín dụng vẫn còn 2,5%, tương đương với số dư nợ có thể tăng thêm hơn 261.000 tỉ đồng. Con số này dù ít hơn nhiều so với mức tăng của cùng kỳ hai tháng cuối năm của những năm trước, nhưng điều này cũng không có gì lạ khi đặc thù năm nay tín dụng đã tăng trưởng mạnh mẽ ngay từ những tháng đầu năm.

Nếu so với cùng kỳ tháng 10 năm ngoái, tín dụng đang ghi nhận tốc độ tăng lên đến 16,5%. Theo đó, quy mô dư nợ tín dụng toàn ngành kinh tế đã tăng thêm hơn 1,6 triệu tỉ đồng trong vòng 12 tháng qua. Đây là mức tăng trưởng khá cao so với mốc duy trì 13-15% của giai đoạn trước đây. Vì vậy, nhà điều hành có lý do để cẩn trọng trong việc kiểm soát tăng trưởng tín dụng trong năm nay.

Một điểm hỗ trợ nữa cho chính sách nới thêm room tín dụng là diễn biến tỷ giá đô la Mỹ/tiền đồng đã hạ nhiệt trong hơn nửa tháng qua, trong bối cảnh đô la Mỹ trên thị trường quốc cũng đã có dấu hiệu tạo đỉnh. NHNN gần đây có động thái giảm giá bán ra đô la Mỹ hai lần liên tiếp trong vòng một tuần. Cụ thể, sau khi giảm 10 đồng từ ngày 11-11, thì đến ngày 18-11, cơ quan này tiếp tục giảm 10 đồng nữa xuống còn 24.850 đồng/đô.

Trong khi đó, sau khi đã mua lại trước hạn 152.500 tỉ đồng trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) trong 10 tháng đầu năm nay, lượng TPDN sẽ đáo hạn trong hai tháng cuối năm vẫn còn khá lớn, với hơn 61.000 tỉ đồng, riêng tháng 12 sẽ có gần 48.000 tỉ đồng. Trong tình hình thị trường TPDN đang gặp nhiều vấn đề, các đợt phát hành mới khó thu hút người mua nên các doanh nghiệp càng mong muốn được tiếp cận kênh tín dụng ngân hàng để có vốn tài trợ cho việc thanh toán các TPDN đến hạn này.

Vì vậy, dễ hiểu khi vì sao thị trường trông chờ vào chính sách nới room tín dụng của NHNN đến như vậy. Thậm thí theo đề xuất của một số chuyên gia, mục tiêu tăng trưởng tín dụng toàn ngành có thể xem xét nới thêm 1-2% nữa, tức nâng room tín dụng cả năm lên 15-16%, để hỗ trợ nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng, khi mà chính sách tài khóa vẫn chưa thể phát huy hiệu quả với các dự án đầu tư công vẫn đang trì trệ.

Những e ngại…

Trong cuộc tiếp xúc với cử tri mới đây, Thủ tướng Chính phủ cho biết, đang chỉ đạo ngành ngân hàng, tài chính có các biện pháp tháo gỡ khó khăn, ách tắc, sửa các quy định không phù hợp, cắt giảm thủ tục hành chính; thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình phục hồi. Miễn, giảm phí, lệ phí cho doanh nghiệp. Nghiên cứu việc nới room tín dụng hợp lý để vừa bảo đảm an toàn hệ thống, ổn định vĩ mô, vừa thúc đẩy tăng trưởng.

Dù vậy, đứng về phía nhà điều hành cũng đang có những cân nhắc thiệt hơn trong tình hình hiện nay. Nếu so với cùng kỳ tháng 10 năm ngoái, tín dụng đang ghi nhận tốc độ tăng lên đến 16,5%. Theo đó, quy mô dư nợ tín dụng toàn ngành kinh tế đã tăng thêm hơn 1,6 triệu tỉ đồng trong vòng 12 tháng qua. Đây là mức tăng trưởng khá cao so với mốc duy trì 13-15% của giai đoạn trước đây. Vì vậy, nhà điều hành có lý do để cẩn trọng trong việc kiểm soát tăng trưởng tín dụng trong năm nay.

Thực tế, theo chia sẻ của Phó thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà, tăng trưởng kinh tế trong chín tháng đầu năm đã có sự đóng góp tích cực của việc tăng trưởng tín dụng nhanh ngay từ đầu năm. Tuy nhiên, khác với mọi năm là huy động vốn năm nay tăng trưởng chậm, hiện mới đạt khoảng 4,6% so với đầu năm, tức là chỉ bằng một phần ba so với tốc độ tăng trưởng của tín dụng. Điều này đặt ra thách thức đối với hệ số sử dụng vốn của hệ thống ngân hàng, đang rất cao, cũng gây quan ngại về thanh khoản cho hệ thống ngân hàng.

Số liệu thống kê cũng cho thấy sau nhiều năm lượng tiền gửi khách hàng trong hệ thống ngân hàng luôn duy trì cao hơn số dư nợ tín dụng, từ tháng 8 đến nay xu thế này đã đảo chiều với số dư nợ tín dụng đã vượt lên cao hơn so với số dư tiền gửi khách hàng và khoảng chênh lệch này có lẽ đang ngày càng mở rộng khi tăng trưởng dư nợ tiếp tục vượt trội. Xu thế này cũng phần nào lý giải vì sao lãi suất tiền gửi tại các ngân hàng bắt đầu tăng vọt từ tháng 9 đến nay.

Đây cũng là lý do mà có ý kiến cho rằng ngay cả khi NHNN có nới thêm room tín dụng thì ngân hàng thương mại cũng không đủ vốn để cho vay tiếp. Khi đó, để đảm bảo đủ nguồn vốn đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp thời gian tới, buộc ngân hàng phải tăng mạnh lãi suất huy động đầu vào. Điều này, có thể sẽ ảnh hưởng tới việc hạ lãi suất cho vay, hỗ trợ doanh nghiệp theo chỉ đạo của Chính phủ và NHNN.

Dù vậy, với nhu cầu vay vốn cuối năm thường tăng mạnh, việc sớm nới thêm room tín dụng là chính sách được chờ đợi. Theo ghi nhận của Ban Nghiên cứu Phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV), doanh nghiệp hiện thiếu vốn cho cả việc duy trì sản xuất – kinh doanh, thu mua và chuẩn bị nguyên vật liệu cho giai đoạn sắp tới lẫn duy trì công ăn việc làm cho người lao động hiện tại.

Dòng tiền của doanh nghiệp đã cạn kiệt sau hơn hai năm chống chọi với dịch Covid-19 và nay càng eo hẹp hơn. Vì vậy, cần sớm có chính sách hỗ trợ với chính sác phát triển tín dụng linh hoạt hơn, đặc biệt ở nhóm sản xuất.

Thụy Lê

Để lại bình luận
Hot Auto Trade Bot Phương Thức Thanh Toán
BROKERS ĐƯỢC CẤP PHÉP
net_home_top Ai VIF
01-05-2024 10:45:17 (UTC+7)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

GBP/USD

1.2475

-0.0015 (-0.12%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

USD/JPY

157.91

+0.12 (+0.07%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

AUD/USD

0.6469

-0.0003 (-0.05%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

USD/CAD

1.3780

+0.0003 (+0.03%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (7)

Sell (0)

EUR/JPY

168.32

+0.10 (+0.06%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

EUR/CHF

0.9808

+0.0001 (+0.01%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (2)

Gold Futures

2,295.80

-7.10 (-0.31%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Silver Futures

26.677

+0.023 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (2)

Sell (10)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Copper Futures

4.5305

-0.0105 (-0.23%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (8)

Sell (1)

Crude Oil WTI Futures

81.14

-0.79 (-0.96%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Brent Oil Futures

85.62

-0.71 (-0.82%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (1)

Sell (11)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Natural Gas Futures

1.946

-0.009 (-0.46%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (5)

US Coffee C Futures

213.73

-13.77 (-6.05%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

Euro Stoxx 50

4,920.55

-60.54 (-1.22%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

S&P 500

5,035.69

-80.48 (-1.57%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

DAX

17,921.95

-196.37 (-1.08%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

FTSE 100

8,144.13

-2.90 (-0.04%)

Summary

Sell

Moving Avg:

Buy (5)

Sell (7)

Indicators:

Buy (2)

Sell (4)

Hang Seng

17,763.03

+16.12 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

US Small Cap 2000

1,973.05

-42.98 (-2.13%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

IBEX 35

10,854.40

-246.40 (-2.22%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (6)

Sell (6)

Indicators:

Buy (3)

Sell (3)

BASF SE NA O.N.

49.155

+0.100 (+0.20%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Bayer AG NA

27.35

-0.24 (-0.87%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (8)

Allianz SE VNA O.N.

266.60

+0.30 (+0.11%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (5)

Adidas AG

226.40

-5.90 (-2.54%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (7)

Deutsche Lufthansa AG

6.714

-0.028 (-0.42%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (9)

Sell (1)

Siemens AG Class N

175.90

-1.74 (-0.98%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Deutsche Bank AG

15.010

-0.094 (-0.62%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (6)

Sell (2)

    EUR/USD 1.0658 ↑ Sell  
    GBP/USD 1.2475 ↑ Sell  
    USD/JPY 157.91 ↑ Buy  
    AUD/USD 0.6469 Neutral  
    USD/CAD 1.3780 ↑ Buy  
    EUR/JPY 168.32 ↑ Buy  
    EUR/CHF 0.9808 Neutral  
    Gold 2,295.80 ↑ Sell  
    Silver 26.677 ↑ Sell  
    Copper 4.5305 ↑ Buy  
    Crude Oil WTI 81.14 ↑ Sell  
    Brent Oil 85.62 ↑ Sell  
    Natural Gas 1.946 ↑ Sell  
    US Coffee C 213.73 ↑ Sell  
    Euro Stoxx 50 4,920.55 ↑ Sell  
    S&P 500 5,035.69 ↑ Sell  
    DAX 17,921.95 ↑ Sell  
    FTSE 100 8,144.13 Sell  
    Hang Seng 17,763.03 ↑ Sell  
    Small Cap 2000 1,973.05 ↑ Sell  
    IBEX 35 10,854.40 Neutral  
    BASF 49.155 ↑ Sell  
    Bayer 27.35 ↑ Sell  
    Allianz 266.60 ↑ Sell  
    Adidas 226.40 ↑ Sell  
    Lufthansa 6.714 Neutral  
    Siemens AG 175.90 ↑ Sell  
    Deutsche Bank AG 15.010 Neutral  
Mua/Bán 1 chỉ SJC
# So hôm qua # Chênh TG
SJC Eximbank8,300/ 8,500
(8,300/ 8,500) # 1,298
SJC 1L, 10L, 1KG8,300/ 8,520
(0/ 0) # 1,510
SJC 1c, 2c, 5c7,380/ 7,550
(0/ 0) # 540
SJC 0,5c7,380/ 7,560
(0/ 0) # 550
SJC 99,99%7,370/ 7,470
(0/ 0) # 460
SJC 99%7,196/ 7,396
(0/ 0) # 386
Cập nhật 01-05-2024 10:45:19
Xem lịch sử giá vàng SJC: nhấn đây!
ↀ Giá vàng thế giới
$2,285.72 -47.5 -2.04%
Live 24 hour Gold Chart
ʘ Giá bán lẻ xăng dầu
Sản phẩm Vùng 1 Vùng 2
RON 95-V25.44025.940
RON 95-III24.91025.400
E5 RON 92-II23.91024.380
DO 0.05S20.71021.120
DO 0,001S-V21.32021.740
Dầu hỏa 2-K20.68021.090
ↂ Giá dầu thô thế giới
WTI $80.83 +3.39 0.04%
Brent $85.50 +3.86 0.05%
$ Tỷ giá Vietcombank
Ngoại tệMua vàoBán ra
USD25.088,0025.458,00
EUR26.475,3627.949,19
GBP30.873,5232.211,36
JPY156,74166,02
KRW15,9219,31
Cập nhật lúc 10:45:15 01/05/2024
Xem bảng tỷ giá hối đoái
Phương Thức Thanh Toán