net_left Kdata Phương Thức Thanh Toán

Nợ ngân hàng đang xấu dần

15 Tháng Mười Một 2022
Nợ ngân hàng đang xấu dần Nợ ngân hàng đang xấu dần
let atwWrapper,atwContainerWidth,atwSliderBox,atwTotalWidth; function initATWSlider() { atwWrapper = $('.relatedInstruments'); atwSliderBox = atwWrapper.find('.slider'); atwContainerWidth = atwWrapper.width(); atwTotalWidth = atwSliderBox.width(); if(window.domainId === '2' || window.domainId === '3'){ atwWrapper.find('.sliderRight').addClass('js-slider-prev'); atwWrapper.find('.sliderLeft').addClass('js-slider-next'); } else { atwWrapper.find('.sliderRight').addClass('js-slider-next'); atwWrapper.find('.sliderLeft').addClass('js-slider-prev'); } if(atwSliderBox.find('.instrumentBox').length > 6){ atwWrapper.find('.js-slider-next').fadeIn(600); } } function atwMoveRight() { atwWrapper.find('.js-slider-prev').fadeIn(150); $(".slider > :visible:first").hide(150) $(".slider > :visible:last").next().show(150); if(!$(".slider > :visible:last").next().find('.name')()){ atwWrapper.find('.js-slider-next').fadeOut(150); return; } } function atwMoveLeft() { atwWrapper.find('.js-slider-next').fadeIn(150); $(".slider > :visible:last").hide(150); $(".slider > :visible:first").prev().show(150); if(!$(".slider > :visible:first").prev().find('.name')()){ atwWrapper.find('.js-slider-prev').fadeOut(150); return; } } initATWSlider(); //update star icon on adding/removing instrument to/from specific watchlist atwWrapper.on('click', 'label.addRow', function() { let parent = $(this).parent(); let checkedPortfolio = false; parent.find('input[type=checkbox]').each(function () { if($(this).is(':checked')){ checkedPortfolio = true; } }); let closestStar = $(this).closest('.addToPortWrapper').find('.star'); if(checkedPortfolio){ closestStar.addClass('added'); }else{ closestStar.removeClass('added'); } }); //update star icon on creating new watchlist atwWrapper.find('.js-create-watchlist-portfolio').find('a.js-create').on('click',function () { let parent = $(this).parent(); let watchlistName = parent.find('input[type=text]').val(); if(!watchlistName){ return; } let star = $(this).closest('.addToPortWrapper').find('.star'); star.addClass('added'); }); //update star icon on adding new position atwWrapper.find('.js-create-holdings-portfolio').find('.js-submit').on('click',function () { let addPositionForm = $(this).closest('.addToPortfolioPop').find('.holdingsContent'); let amount = addPositionForm.find('.js-amount').val(); if(amount < 1){ return; } let star = $(this).closest('.addToPortWrapper').find('.star'); star.addClass('added'); }); atwWrapper.find('.instrumentBox').find('.shortInfo').on('click',function () { if(!window.ga){ return; } let pairId = $(this).parent().find('.js-add-to-portfolio').attr('data-pair-id'); let pairType = window.atwPairTypes[pairId]; window.ga('allSitesTracker.send', 'event', 'content', 'symbol link clicked', '', { "dimension147":"symbol_link_clicked", "dimension163":"click", "dimension148":"symbol", "dimension162":"content add to watchlist", "dimension161":"article page", "dimension142":"article", "dimension75":pairType, "dimension138":pairId, "dimension118":"2000595" }); window.open($(this).attr('data-href')); }); window.atwPairTypes = {"41913":"Equities","42100":"Equities","958398":"Equities","958437":"Equities","958472":"Equities","958676":"Equities","1024909":"Equities","1043364":"Equities","1057644":"Equities","1059844":"Equities","1081734":"Equities"};

Vietstock - Nợ ngân hàng đang xấu dần

Tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay của các ngân hàng tính đến cuối quý 3 có xu hướng xấu đi rất nhanh, thậm chí có ngân hàng đưa tỷ lệ này lên 2 con số.

Từ ngày 30/06/2022, Thông tư 14/2021/TT-NHNN về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm phí, giữ nguyên nhóm nợ cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 đã chấm dứt. Không ít ý kiến cho rằng việc dừng Thông tư 14 sẽ làm cho các ngân hàng đối mặt rõ hơn với nợ xấu. Các con số từ BCTC cho thấy thực tế xấu nhanh hơn dự báo.

Nợ xấu cuối quý 3 tăng 30% so với đầu năm

Phân loại chất lượng nợ vay của các ngân hàng tính đến 30/09/2022 (Đvt: Tỷ đồng)
Nguồn: VietstockFinance

Theo dữ liệu từ VietstockFinance, dư nợ cho vay từ 28 ngân hàng đã công bố BCTC đạt hơn 8.28 triệu tỷ đồng tại thời điểm cuối quý 3, tăng 12% so với đầu năm. PG Bank (PGB) là ngân hàng duy nhất tăng trưởng âm (-0.78%), các ngân hàng còn lại tăng trưởng tín dụng bình quân 12.4%. HDBank (HM:HDB, +21.3%), BaoVietBank (+18.3%) và Techcombank (HM:TCB, +18.2%) là các ngân hàng có mức tăng trưởng tín dụng cao nhất.

Nợ xấu của 28 ngân hàng tại ngày 30/09/2022 chiếm 132,908 tỷ đồng trong tổng dư nợ, tăng 30% so với đầu năm. Chỉ có 5/28 ngân hàng công bố nợ xấu cải thiện hơn gồm Sacombank (HM:STB, -34%), BaoVietBank (-23%), BAB (HN:BAB) (-17%), VAB (-7%) và MSB (-5%).

Ở chiều ngược lại, mức tăng trưởng nợ xấu bình quân tại các ngân hàng là 29%. Đáng chú ý nhất là NCB (NVB (HN:NVB)), tổng nợ xấu cuối quý 3 được nâng lên 6,648 tỷ đồng, gấp 5.3 lần con số đầu năm (1,249 tỷ đồng).

Cơ cấu nợ xấu cũng có chiều hướng xấu đi so với đầu năm khi nợ dưới chuẩn giảm 7% nhưng nợ nghi ngờ tăng 19% và nợ có khả năng mất vốn tăng đến 61% .

Tỷ trọng nợ có khả năng mất vốn tăng bằng lần tại các ngân hàng như NCB (2.9 lần), VPBank (HM:VPB) (2.8 lần), VietinBank (CTG (HM:CTG), 2.4 lần)… Trong khi đó, NCB, OCB, BIDV (HM:BID) và BVB là các ngân hàng tăng đều nợ xấu ở tất cả các nhóm.

BaoVietBankSacombank là 2 ngân hàng giảm tất cả các nhóm nợ xấu.

Tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay lên mức 2 con số

Tỷ lệ nợ xấu/dư nợ vay của các ngân hàng tính đến 30/09/2022 (Đvt: Tỷ đồng)
Nguồn: VietstockFinance

Xét về tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay, có 18/28 ngân hàng tăng so với đầu năm. Đáng chú ý nhất là NCB khi ghi nhận tỷ lệ nợ xấu/dư nợ vay lên 14.72%.

Tổng nợ xấu của NCB tại ngày 30/09/2022 gấp 5.3 lần đầu năm, lên mức 6,648 tỷ đồng. Các nhóm nợ xấu đều tăng mạnh trong khi dư nợ vay chỉ tăng 9% (45,164 tỷ đồng), đẩy tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 3% lên 14.72%.

NCB giải trình những tháng đầu năm 2022, nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng có xu hướng tăng mạnh khi các ngân hàng chuyển dần các khoản nợ tái cơ cấu về đúng nhóm nợ, đặc biệt là sau khi Thông tư 14 hết hạn vào ngày 30/06/2022, khiến tỷ lệ nợ xấu tăng cao.

Trong 9 tháng đầu năm 2022, NCB cũng đã xử lý và thu hồi nợ tồn đọng; tăng cường trích lập dự phòng rủi ro với những khoản nợ có khả năng chuyển xấu và phân loại khách hàng đúng tình trạng khoản nợ theo quy định của Thông tư 14.

VPBank cũng tăng tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay hợp nhất từ mức 4.57% hồi đầu năm lên 5.02% ở thời điểm cuối quý 3. Tính riêng trên ngân hàng mẹ, tỷ lệ này cũng tăng từ mức 2.01% đầu năm lên 2.83%.

Vietbank tăng tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay từ mức 3.65% đầu năm lên 4.33%. Tổng nợ xấu của ngân hàng này là 2,486 tỷ đồng, tăng 35% so với đầu năm và có sự dịch chuyển mạnh từ nợ dưới chuẩn (-34%) và nợ nghi ngờ (-28%) sang nợ có khả năng mất vốn (+100%).

BaoVietBank dù giảm mạnh tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay từ mức 4.94% đầu năm xuống còn 3.23% tại ngày 30/09/2022, vẫn khiến tổng số nhà băng có tỷ lệ nợ xấu trên 3% nằm ở mức 4.

“Đệm dự phòng” thổi bay lợi nhuận

Trước đây, để dự phòng cho việc nợ xấu tăng cao sau khi Thông tư 14 hết hiệu lực, các ngân hàng đã tăng cường trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Các ngân hàng có “bộ đệm” mỏng sẽ phải trích lập thêm và các ngân hàng đã dự phòng nhiều, thu hồi được nợ sẽ tăng lợi nhuận từ việc hoàn nhập dự phòng.

Trong 9 tháng đầu năm, có 2 ngân hàng được hoàn nhập dự phòng, góp phần gia tăng lợi nhuận là Eximbank (HM:EIB) và ACB (HM:ACB).

Tăng trưởng tất cả các nguồn thu đem về cho Eximbank 3,173 tỷ đồng lợi nhuận thuần, gấp 2.2 lần cùng kỳ. Thêm vào đó, việc được hoàn nhập gần 8 tỷ đồng dự phòng (cùng kỳ phải trích lập 503 tỷ đồng), góp phần giúp Eximbank thu được 3,181 tỷ đồng lãi trước thuế, gấp 3.3 lần cùng kỳ. Eximbank cũng là ngân hàng có mức tăng trưởng lợi nhuận 9 tháng cao nhất hệ thống.

ACB được hoàn nhập 180 tỷ đồng thay vì phải trích lập 2,912 tỷ đồng như cùng kỳ, giúp ngân hàng này tăng 51% lợi nhuận trước thuế, thu về 13,503 tỷ đồng.

Trong khi đó, nhiều ngân hàng tăng cường trích lập dự phòng rủi ro tín dụng bằng lần như KLB (HN:KLB) (6.2 lần), SGB (4.7 lần), VBB (2.7 lần), PG Bank (2.4 lần)…

Kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm 2022 của các ngân hàng (Đvt: Tỷ đồng)
Nguồn: VietstockFinance

Ông Nguyễn Mạnh Quân - Quyền Tổng Giám đốc ABBank cho biết trong quý 3/2022, hoạt động ngành ngân hàng chịu áp lực, biên lãi ròng (NIM) có xu hướng giảm do lãi suất đầu vào có xu hướng tăng cũng như khả năng đối mặt với tình trạng nợ xấu gia tăng vào cuối năm 2022.

Bên cạnh đó, lâu nay, nhiều ngân hàng sống khỏe nhờ tín dụng bất động sản và đầu tư, phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc siết chặt dòng tiền đổ vào hai kênh này thời gian tới có thể sẽ ảnh hưởng đến thu nhập của các ngân hàng.

Trong một báo cáo phân tích được công bố, VDSC đã đưa ra những đánh giá về ảnh hưởng có thể xảy ra đối với chất lượng tài sản của ngành ngân hàng, khi giá trị trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) đáo hạn sẽ tập trung trong năm 2023 và 2024.

Quy mô tín dụng vào ngành bất động sản (gồm cho vay và TPDN) hiện nay cao hơn đáng kể so với trước đây. Số dư tính đến 30/06/2022 là 2.37 triệu tỷ đồng, tương đương 20.7% tổng tín dụng toàn nền kinh tế, so với mức 16.5% vào năm 2017.

VDSC nhận thấy xác suất nợ xấu gia tăng đang cao hơn, tạo áp lực lên chi phí tín dụng trong các quý tiếp theo. Theo đó, những ngân hàng phân bổ tín dụng vào bất động sản cao (10%) sẽ phải chịu rủi ro hơn các ngân hàng khác, nhưng mức độ rủi ro là khác nhau tùy vào mức độ tiếp xúc tín dụng (cho vay và đầu tư TPDN) với ngành bất động sản, và sức khỏe tài chính của các đối tác bất động sản liên quan.

Cát Lam

Để lại bình luận
Hot Auto Trade Bot Phương Thức Thanh Toán
BROKERS ĐƯỢC CẤP PHÉP
net_home_top Ai VIF
01-05-2024 10:45:17 (UTC+7)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

GBP/USD

1.2475

-0.0015 (-0.12%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

USD/JPY

157.91

+0.12 (+0.07%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

AUD/USD

0.6469

-0.0003 (-0.05%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

USD/CAD

1.3780

+0.0003 (+0.03%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (7)

Sell (0)

EUR/JPY

168.32

+0.10 (+0.06%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

EUR/CHF

0.9808

+0.0001 (+0.01%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (2)

Gold Futures

2,295.80

-7.10 (-0.31%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Silver Futures

26.677

+0.023 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (2)

Sell (10)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Copper Futures

4.5305

-0.0105 (-0.23%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (8)

Sell (1)

Crude Oil WTI Futures

81.14

-0.79 (-0.96%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Brent Oil Futures

85.62

-0.71 (-0.82%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (1)

Sell (11)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Natural Gas Futures

1.946

-0.009 (-0.46%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (5)

US Coffee C Futures

213.73

-13.77 (-6.05%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

Euro Stoxx 50

4,920.55

-60.54 (-1.22%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

S&P 500

5,035.69

-80.48 (-1.57%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

DAX

17,921.95

-196.37 (-1.08%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

FTSE 100

8,144.13

-2.90 (-0.04%)

Summary

Sell

Moving Avg:

Buy (5)

Sell (7)

Indicators:

Buy (2)

Sell (4)

Hang Seng

17,763.03

+16.12 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

US Small Cap 2000

1,973.05

-42.98 (-2.13%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

IBEX 35

10,854.40

-246.40 (-2.22%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (6)

Sell (6)

Indicators:

Buy (3)

Sell (3)

BASF SE NA O.N.

49.155

+0.100 (+0.20%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Bayer AG NA

27.35

-0.24 (-0.87%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (8)

Allianz SE VNA O.N.

266.60

+0.30 (+0.11%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (5)

Adidas AG

226.40

-5.90 (-2.54%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (7)

Deutsche Lufthansa AG

6.714

-0.028 (-0.42%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (9)

Sell (1)

Siemens AG Class N

175.90

-1.74 (-0.98%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Deutsche Bank AG

15.010

-0.094 (-0.62%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (6)

Sell (2)

    EUR/USD 1.0658 ↑ Sell  
    GBP/USD 1.2475 ↑ Sell  
    USD/JPY 157.91 ↑ Buy  
    AUD/USD 0.6469 Neutral  
    USD/CAD 1.3780 ↑ Buy  
    EUR/JPY 168.32 ↑ Buy  
    EUR/CHF 0.9808 Neutral  
    Gold 2,295.80 ↑ Sell  
    Silver 26.677 ↑ Sell  
    Copper 4.5305 ↑ Buy  
    Crude Oil WTI 81.14 ↑ Sell  
    Brent Oil 85.62 ↑ Sell  
    Natural Gas 1.946 ↑ Sell  
    US Coffee C 213.73 ↑ Sell  
    Euro Stoxx 50 4,920.55 ↑ Sell  
    S&P 500 5,035.69 ↑ Sell  
    DAX 17,921.95 ↑ Sell  
    FTSE 100 8,144.13 Sell  
    Hang Seng 17,763.03 ↑ Sell  
    Small Cap 2000 1,973.05 ↑ Sell  
    IBEX 35 10,854.40 Neutral  
    BASF 49.155 ↑ Sell  
    Bayer 27.35 ↑ Sell  
    Allianz 266.60 ↑ Sell  
    Adidas 226.40 ↑ Sell  
    Lufthansa 6.714 Neutral  
    Siemens AG 175.90 ↑ Sell  
    Deutsche Bank AG 15.010 Neutral  
Mua/Bán 1 chỉ SJC
# So hôm qua # Chênh TG
SJC Eximbank8,300/ 8,500
(8,300/ 8,500) # 1,298
SJC 1L, 10L, 1KG8,300/ 8,520
(0/ 0) # 1,510
SJC 1c, 2c, 5c7,380/ 7,550
(0/ 0) # 540
SJC 0,5c7,380/ 7,560
(0/ 0) # 550
SJC 99,99%7,370/ 7,470
(0/ 0) # 460
SJC 99%7,196/ 7,396
(0/ 0) # 386
Cập nhật 01-05-2024 10:45:19
Xem lịch sử giá vàng SJC: nhấn đây!
ↀ Giá vàng thế giới
$2,285.72 -47.5 -2.04%
Live 24 hour Gold Chart
ʘ Giá bán lẻ xăng dầu
Sản phẩm Vùng 1 Vùng 2
RON 95-V25.44025.940
RON 95-III24.91025.400
E5 RON 92-II23.91024.380
DO 0.05S20.71021.120
DO 0,001S-V21.32021.740
Dầu hỏa 2-K20.68021.090
ↂ Giá dầu thô thế giới
WTI $80.83 +3.39 0.04%
Brent $85.50 +3.86 0.05%
$ Tỷ giá Vietcombank
Ngoại tệMua vàoBán ra
USD25.088,0025.458,00
EUR26.475,3627.949,19
GBP30.873,5232.211,36
JPY156,74166,02
KRW15,9219,31
Cập nhật lúc 10:45:15 01/05/2024
Xem bảng tỷ giá hối đoái
Phương Thức Thanh Toán