net_left Kdata Phương Thức Thanh Toán
Phương Thức Thanh Toán

Rủi ro trung hạn đối với ngành ngân hàng. Thị trường 30/9

Theo Dong Hai AiVIF.com – Thị trường Việt Nam khởi động phiên giao dịch với 3 thông tin mới: Rủi ro trung hạn đối với ngành ngân hàng, nhà đầu tư nào sẽ thực hiện dự án đường...
Rủi ro trung hạn đối với ngành ngân hàng. Thị trường 30/9 © Reuters

Theo Dong Hai

AiVIF.com – Thị trường Việt Nam khởi động phiên giao dịch với 3 thông tin mới: Rủi ro trung hạn đối với ngành ngân hàng, nhà đầu tư nào sẽ thực hiện dự án đường Vành đai 4 Hà Nội và khủng hoảng thiếu khí đốt đang lan rộng toàn cầu như thế nào? Dưới đây là nội dung chi tiết 3 thông tin mới trong phiên giao dịch hôm nay thứ Năm ngày 30/9.

1. Rủi ro trung hạn đối với ngành ngân hàng

Trong cuộc họp bàn về chính sách tín dụng cho ngành hàng không diễn ra mới đây đã đề cập đến khó khăn với ngành hàng không cũng như các ngành kinh tế khác. Bên cạnh đó, cũng có những thảo luận xoay quanh ngành ngân hàng cũng là một ngành kinh tế, các ngân hàng thương mại cũng là doanh nghiệp, cũng đang rất khó khăn.

Theo đó, triển vọng vĩ mô của Ngân hàng Nhà nước đối với với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng lúc này có thể nói là đang rất lo ngại cho giai đoạn trung hạn trong mấy năm tới. Như khi nền kinh tế giai đoạn 2009 - 2010 chịu tác động của khủng hoảng tài chính khu vực, chỉ tác động tới một số lĩnh vực kinh tế nhưng đã xảy ra câu chuyện bong bóng tài sản, chứng khoán lên, bất động sản lên, khi rút bong bóng để lại một mớ nợ xấu cho ngân hàng. Tại thời điểm đó, nợ xấu chiếm 11% tổng dư nợ và ngân hàng phải giải quyết vẫn chưa triệt để tính đến thời điểm hiện tại. Thời kỳ đó, quy mô dư nợ nền kinh tế chỉ khoảng 2,4 - 2,7 triệu tỷ đồng nhưng hôm nay đã lên đến 9,8 triệu tỷ đồng. Quy mô lớn càng khiến lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước lo ngại.

Với các gói tín dụng hỗ trợ nền kinh tế, cần phải cân nhắc đến vấn đề nợ xấu, bởi tác động tới ngành ngân hàng có độ trễ khoảng nửa năm, một năm. Nợ xấu cũng có nguy cơ tăng lên, hiện nay tỷ lệ nợ xấu và nợ có nguy cơ trở thành nợ xấu ở mức trên 7% dư nợ.

Một rủi ro khác với ngành ngân hàng trong trung hạn là khi dịch Covid-19 từng bước được khống chế, nền kinh tế tăng trưởng nhanh hơn thì nhu cầu vốn cũng sẽ tăng, doanh nghiệp sẽ rút tiền ra thanh toán, tác động đền nguồn tiền huy động của các tổ chức tín dụng. Nhằm đảm bảo thanh khoản để cho vay tiếp, lãi suất sẽ phải bị điều chỉnh tăng lên, khó giữ được mặt bằng thấp như hiện nay. Mặc dù một số ngân hàng ghi nhận lợi nhuận tăng so với trước nhưng cũng phải đặt câu hỏi là lợi nhuận đó có bền vững hay không. Bài toán khó hiện nay là phải đưa ra được cơ chế chính sách để giải quyết vấn đề trước mắt của nền kinh tế nhưng lại phải đảm bảo ổn định hệ thống tài chính quốc gia.

Bên cạnh việc giảm lãi, phí, tái cơ cấu nợ đang thực hiện, dự kiến Nhà nước sẽ tung ra gói hỗ trợ lãi suất khoảng 3.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 100.000 tỷ đồng dư nợ tín dụng để hỗ trợ cho người dân, doanh nghiệp trong thời gian tới.

2. Nhà đầu tư nào sẽ thực hiện dự án đường Vành đai 4 Hà Nội?

Sau khi Thành ủy Hà Nội ban hành nghị quyết về thực hiện đường Vành đai 4, UBND thành phố và các sở ngành liên quan đã triển khai các bước tiếp theo. Tuyến đường Vành đai 4 được chia làm 7 đoạn và có tổng chiều dài là 98 km. Trong đó, đoạn trên địa bàn Hà Nội dài 54 km; trên địa bàn Hưng Yên dài 23 km; đoạn trên địa bàn Bắc Ninh 21 km. Điểm đầu dự án là đoạn nút giao với cao tốc Nội Bài - Lào Cai, điểm cuối đoạn giao cao tốc Nội Bài - Hạ Long. Tuyến có một đoạn đi trùng với QL18 và cao tốc Nội Bài - Hạ Long. Tuyến đường có mặt cắt ngang rộng 120 mét (bao gồm cả quỹ đất dự trữ và sử dụng cho hạ tầng kỹ thuật).

Về vốn đầu tư, Sở GTVT Hà Nội cho biết, qua rà soát tính toán sơ bộ để đầu tư toàn tuyến Vành đai 4, phương án 1 sẽ có tổng mức đầu tư khoảng 105.000 tỷ đồng và theo phương án 2 cần tổng vốn khoảng 135.000 tỷ đồng.

Theo Sở GTVT Hà Nội, từ thiết kế dự án do Bộ GTVT lập và các điều chỉnh về sau, hiện tuyến đường Vành đai 4 đã có 4 nhà đầu tư đề xuất được thực hiện dự án theo từng phân đoạn.

  • CTCP Tập đoàn T&T đề xuất đầu tư 2 đoạn, gồm từ cao tốc Nội Bài - Lào Cai đến QL32 và từ QL32 đến cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ, tổng mức đầu tư được lập trước đây cho 2 đoạn này là 16.200 tỷ đồng.
  • Liên danh CTCP đầu tư xây dựng công trình giao thông Phương Thành - CT PTHT Nguyên Minh đề xuất làm đoạn từ cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ đến cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, bao gồm cả cầu Mễ Sở, tổng kinh phí 9.800 tỷ đồng.
  • CTCP tập đoàn Hoành Sơn đề xuất xây cầu Hồng Hà (Đông Anh) và đường dẫn 2 đầu cầu, tổng kinh phí là 8.800 tỷ đồng.

3. Khủng hoảng thiếu khí đốt đang lan rộng toàn cầu như thế nào?

Theo CNN Business, tại Mỹ giá khí đốt đã tăng hơn 180% trong vòng 12 tháng qua, lên mức 5,9 USD/1 triệu BTU, mức cao nhất kể từ tháng 2/2014. Giới phân tích cho rằng nếu nhiệt độ ở Mỹ giảm sâu trong những tháng mùa đông sắp tới, nhu cầu tiêu thụ khí đốt để sưởi ấm sẽ càng tăng mạnh, khiến lượng tồn kho khí đốt của nước này giảm sâu thêm, và giá sẽ còn lên cao hơn nữa.

Áp lực lạm phát toàn cầu vì giá khí đốt leo thang

Giá khí đốt tăng là một nguyên nhân đẩy giá dầu thô tăng cao thời gian gần đây. Trong phiên giao dịch ngày 28/9, giá dầu Brent giao sau tại thị trường London có thời điểm vượt 80 USD/thùng, cao nhất kể từ tháng 12/2018.

Giá khí đốt tăng cao có thể khiến lạm phát ở Mỹ thêm trầm trọng. Người tiêu dùng ở nước này đang phải trả nhiều tiền hơn cho hầu như tất cả các mặt hàng từ ô tô cũ cho tới xăng và thực phẩm.

Lạm phát leo thang đang gây sức ép buộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sớm cắt giảm chương trình mua tài sản và thậm chí phải tăng lãi suất từ năm 2022. Chính sách tiền tệ thay đổi sẽ tác động mạnh đến thị trường tài chính không chỉ ở Mỹ mà còn trên toàn cầu. Ngoài ra, lạm phát cao cũng khiến một số nghị sỹ Mỹ đặt câu hỏi về sự cần thiết của các chương trình chi tiêu đầy tham vọng của chính quyền Tổng thống Joe Biden.

Khoảng một nửa số hộ gia đình ở Mỹ dùng khí đốt để sưởi ấm và đun nước, theo dữ liệu của Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA).

Châu Âu và châu Á thậm chí đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng khan hiếm khí đốt còn tệ hơn ở Mỹ. Giá khí đốt leo thang và sự thắt chặt nguồn cung đã góp phần dẫn tới những đợt cúp điện liên miên ở Trung Quốc, gây gián đoạn hoạt động của các nhà máy và phủ bóng lên triển vọng phục hồi kinh tế của nhiều nền kinh tế.

Giá khí đốt tăng vọt đã khiến một công ty sản xuất phân bón lớn của Mỹ phải tạm ngừng hoạt động ở Anh. Lo ngại việc này sẽ dẫn tới khan hiếm thực phẩm, Chính phủ Anh đã phải vào cuộc để giải cứu công ty này.

Trên thực tế, nước Mỹ có thể vượt qua được khủng hoảng khí đốt tốt hơn nhiều nước khác, bởi Mỹ là nước đi đầu thế giới về sản xuất khí đốt nhờ sự bùng nổ của lĩnh vực khai thác dầu khí đá phiến mang lại nguồn khí đốt dồi dào. Mỹ là một nước xuất khẩu khí đốt lớn. Tuy nhiên, với châu Âu và châu Á, hai khu vực có độ phụ thuộc cao hơn vào nguồn khí đốt từ bên ngoài, mọi chuyện sẽ khó khăn hơn.

Vì sao giá khí đốt tăng mạnh?

Khi hoạt động kinh tế tăng mạnh trở lại, sản lượng khí đốt lại không. Điều đó có nghĩa là nhu cầu phục hồi nhanh hơn nguồn cung, buộc giá phải tăng. Sau nhiều năm thua lỗ, các nhà sản xuất khí đốt đã trở nên thận trọng với việc đẩy mạnh sản xuất. Lượng khí đốt tồn kho ở 48 bang của Mỹ đang thấp hơn mức bình thường, theo dữ liệu của IEA. Nhu cầu khí đốt ở Mỹ vốn dĩ đã tăng mạnh trong mùa hè năm nay do những đợt sóng nhiệt làm gia tăng nhu cầu sử dụng điều hoà không khí. Trong hệ thống phát điện của Mỹ, 40% nhiên liệu đầu vào là khí đốt. Sản lượng khí đốt của thế giới còn suy yếu do những đợt gián đoạn sản xuất không được lường trước ở Na Uy và Nga, cũng như siêu bão Ida trên Vịnh Mexico. Do thế giới thiếu khí đốt và giá tăng cao, Mỹ đã đẩy mạnh xuất khẩu khí đốt, khiến lượng khí đốt tồn kho của nước này giảm sâu hơn. Năm nay, Mỹ xuất khẩu bình quân 9,6 tỷ feet khối khí hoá lỏng (LNG) mỗi ngày, tăng 48% so với năm trước đó, theo EIA. Ngoài ra, các quỹ đầu cơ ở Phố Wall cũng góp phần đẩy giá khí đốt lên cao hơn, khi họ nhận thấy rằng mức tồn kho khí đốt đang ở mức thấp bất thường.

Đợt tăng giá khí đốt này diễn ra vào một thời điểm đầy thách thức đối với các chính phủ trên thế giới, khi họ vừa phải đương đầu với lạm phát cao, vừa phải thúc đẩy sự dịch chuyển khỏi các nhiên liệu hoá thạch nhằm chống lại sự nóng lên của Trái Đất.

Theo IHS Markit, đã có ít nhất 4 nước trong Liên minh châu Âu (EU) triển khai kế hoạch để tiến tới chấm dứt việc sản xuất nhiên liệu hoá thạch trong nước vào năm 2050. Tổng thống Mỹ Joe Biden đã đặt mục tiêu phát điện không tạo ra khí thải carbon vào năm 2035 – một mục tiêu tham vọng đòi hỏi một sự dịch chuyển nhanh khỏi khí đốt và than trong phát điện sang năng lượng gió và mặt trời.

Hot Auto Trade Bot Phương Thức Thanh Toán
BROKERS ĐƯỢC CẤP PHÉP
net_home_top Ai VIF
01-05-2024 10:45:17 (UTC+7)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

GBP/USD

1.2475

-0.0015 (-0.12%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

USD/JPY

157.91

+0.12 (+0.07%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

AUD/USD

0.6469

-0.0003 (-0.05%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

USD/CAD

1.3780

+0.0003 (+0.03%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (7)

Sell (0)

EUR/JPY

168.32

+0.10 (+0.06%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

EUR/CHF

0.9808

+0.0001 (+0.01%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (2)

Gold Futures

2,295.80

-7.10 (-0.31%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Silver Futures

26.677

+0.023 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (2)

Sell (10)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Copper Futures

4.5305

-0.0105 (-0.23%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (8)

Sell (1)

Crude Oil WTI Futures

81.14

-0.79 (-0.96%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Brent Oil Futures

85.62

-0.71 (-0.82%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (1)

Sell (11)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Natural Gas Futures

1.946

-0.009 (-0.46%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (5)

US Coffee C Futures

213.73

-13.77 (-6.05%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

Euro Stoxx 50

4,920.55

-60.54 (-1.22%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

S&P 500

5,035.69

-80.48 (-1.57%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

DAX

17,921.95

-196.37 (-1.08%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

FTSE 100

8,144.13

-2.90 (-0.04%)

Summary

Sell

Moving Avg:

Buy (5)

Sell (7)

Indicators:

Buy (2)

Sell (4)

Hang Seng

17,763.03

+16.12 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

US Small Cap 2000

1,973.05

-42.98 (-2.13%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

IBEX 35

10,854.40

-246.40 (-2.22%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (6)

Sell (6)

Indicators:

Buy (3)

Sell (3)

BASF SE NA O.N.

49.155

+0.100 (+0.20%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Bayer AG NA

27.35

-0.24 (-0.87%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (8)

Allianz SE VNA O.N.

266.60

+0.30 (+0.11%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (5)

Adidas AG

226.40

-5.90 (-2.54%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (7)

Deutsche Lufthansa AG

6.714

-0.028 (-0.42%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (9)

Sell (1)

Siemens AG Class N

175.90

-1.74 (-0.98%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Deutsche Bank AG

15.010

-0.094 (-0.62%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (6)

Sell (2)

    EUR/USD 1.0658 ↑ Sell  
    GBP/USD 1.2475 ↑ Sell  
    USD/JPY 157.91 ↑ Buy  
    AUD/USD 0.6469 Neutral  
    USD/CAD 1.3780 ↑ Buy  
    EUR/JPY 168.32 ↑ Buy  
    EUR/CHF 0.9808 Neutral  
    Gold 2,295.80 ↑ Sell  
    Silver 26.677 ↑ Sell  
    Copper 4.5305 ↑ Buy  
    Crude Oil WTI 81.14 ↑ Sell  
    Brent Oil 85.62 ↑ Sell  
    Natural Gas 1.946 ↑ Sell  
    US Coffee C 213.73 ↑ Sell  
    Euro Stoxx 50 4,920.55 ↑ Sell  
    S&P 500 5,035.69 ↑ Sell  
    DAX 17,921.95 ↑ Sell  
    FTSE 100 8,144.13 Sell  
    Hang Seng 17,763.03 ↑ Sell  
    Small Cap 2000 1,973.05 ↑ Sell  
    IBEX 35 10,854.40 Neutral  
    BASF 49.155 ↑ Sell  
    Bayer 27.35 ↑ Sell  
    Allianz 266.60 ↑ Sell  
    Adidas 226.40 ↑ Sell  
    Lufthansa 6.714 Neutral  
    Siemens AG 175.90 ↑ Sell  
    Deutsche Bank AG 15.010 Neutral  
Mua/Bán 1 chỉ SJC
# So hôm qua # Chênh TG
SJC Eximbank8,300/ 8,500
(8,300/ 8,500) # 1,298
SJC 1L, 10L, 1KG8,300/ 8,520
(0/ 0) # 1,510
SJC 1c, 2c, 5c7,380/ 7,550
(0/ 0) # 540
SJC 0,5c7,380/ 7,560
(0/ 0) # 550
SJC 99,99%7,370/ 7,470
(0/ 0) # 460
SJC 99%7,196/ 7,396
(0/ 0) # 386
Cập nhật 01-05-2024 10:45:19
Xem lịch sử giá vàng SJC: nhấn đây!
ↀ Giá vàng thế giới
$2,285.72 -47.5 -2.04%
Live 24 hour Gold Chart
ʘ Giá bán lẻ xăng dầu
Sản phẩm Vùng 1 Vùng 2
RON 95-V25.44025.940
RON 95-III24.91025.400
E5 RON 92-II23.91024.380
DO 0.05S20.71021.120
DO 0,001S-V21.32021.740
Dầu hỏa 2-K20.68021.090
ↂ Giá dầu thô thế giới
WTI $80.83 +3.39 0.04%
Brent $85.50 +3.86 0.05%
$ Tỷ giá Vietcombank
Ngoại tệMua vàoBán ra
USD25.088,0025.458,00
EUR26.475,3627.949,19
GBP30.873,5232.211,36
JPY156,74166,02
KRW15,9219,31
Cập nhật lúc 10:45:15 01/05/2024
Xem bảng tỷ giá hối đoái
Phương Thức Thanh Toán