net_left Kdata Phương Thức Thanh Toán
Phương Thức Thanh Toán

Thị trường chứng khoán Việt Nam lọt nhóm tăng mạnh nhất thế giới. Thị trường 30/6

Theo Dong Hai AiVIF.com -- VN-Index tăng gần 28% trong 6 tháng đầu năm nay đưa chứng khoán Việt Nam lọt nhóm những thị trường tăng mạnh nhất thế giới. Hàng không Việt Nam sẽ...
Thị trường chứng khoán Việt Nam lọt nhóm tăng mạnh nhất thế giới. Thị trường 30/6

Theo Dong Hai

AiVIF.com -- VN-Index tăng gần 28% trong 6 tháng đầu năm nay đưa chứng khoán Việt Nam lọt nhóm những thị trường tăng mạnh nhất thế giới. Hàng không Việt Nam sẽ phục hồi từ giữa quý III. Thị trường Việt Nam chuyển động trong những ngày cuối tháng 6 với một số nội dung đáng chú ý dưới đây.

 1. Thị trường chứng khoán Việt Nam lọt nhóm tăng mạnh nhất thế giới

Kể từ tháng 6, giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam khởi sắc nối dài chuỗi đà tăng trong 5 tháng liên tiếp của chứng khoán Việt Nam. Với mức tăng ấn tượng trong nửa đầu năm nay, thị trường chứng khoán Việt Nam lọt nhóm tăng mạnh nhất thế giới.

Theo dữ liệu của trang thống kê StockQ.org, mức tăng 27,74% của thị trường chứng khoán Việt Nam (đại diện bởi VN-Index) nửa đầu năm nay chỉ xếp sau thị trường Abu Dhabi (34,05%), khởi sắc hơn Luxembourg (26,97%), Jordan (26,88%), Austria (24,11%).

Thống kê trong một năm trở lại đây, chứng khoán Việt Nam tăng trưởng mạnh nhất thế giới với tỷ lệ 70,02%, cao hơn Luxembourg (68,16%), Nigeria (64,49%), Nga (63,61%), Abu Dhabi (58,19%), Hàn Quốc (57%), Argentina (56,23%). Riêng trong tháng 6, mức tăng 6,78% giúp Việt Nam giữ vững "ngôi vương".

Thống kê từ Trading Economics, cho thấy mức tăng 59,41% của HNX-Index đẩy Việt Nam trở thành thị trường tăng điểm mạnh thứ hai châu Á, xếp sau mức tăng 70,83% của chỉ số MSE TOP 20 tại thị trường chứng khoán Mông Cổ. Cho thấy đà tăng của chứng khoán Việt Nam vượt trội hơn đáng kể so với thị trường chứng khoán lớn trên thế giới như Mỹ (Dow Jones tăng 12,04%), Trung Quốc (Shanghai Composite, 2,88%) hay Nhật Bản (Niikei 225, 5%). Sức mạnh của thị trường Việt Nam còn được thể hiện rõ nét khi so sánh với hiệu suất các thị trường khác trong khu vực như Thái Lan (SET50, 5,16%), Singapore (STI, 8,84%). Thị trường chứng khoán Malaysia và Lào ngược chiều giảm điểm trong nửa đầu năm 2021.

2. Hàng không Việt Nam sẽ phục hồi từ giữa quý III

Báo cáo của Cục Hàng không Việt Nam gửi Bộ Giao thông vận tải đưa ra dự báo lạc quan về tình hình ngành hàng không năm nay, đặc biệt vào nửa cuối năm khi việc tiêm vaccine phòng Covid-19 được đẩy nhanh tại Việt Nam và thế giới nói chung. Đặc biệt một số thị trường trọng điểm của hàng không Việt Nam như Đông Bắc Á, châu Âu sẽ đủ điều kiện tạo miễn dịch cộng đồng, làm cơ sở từng bước mở lại hoạt động vận chuyển hàng không quốc tế vào cuối quý III, đầu quý IV.

Cục Hàng không nhận định thị trường hàng không Việt Nam sẽ phục hồi từ giữa quý III với sản lượng thông qua các cảng hàng không của Việt Nam ước đạt trên 70 triệu hành khách. Đại dịch Covid-19 đã mang đến một giai đoạn đầy biến động đối với ngành hàng không thế giới. Riêng trong năm 2020, toàn bộ ngành ước tính giảm 60% lượng khách vận chuyển (tương ứng khoảng 2,89 tỷ lượt hành khách) với doanh thu thâm hụt 327 tỷ USD. Trong đó, khu vực châu Á - Thái Bình Dương ghi nhận mức sụt giảm mạnh nhất là 107 tỷ USD, chưa bằng 1/3 doanh thu năm 2019.

Đối với thị trường hàng không Việt Nam, lệnh hạn chế bay, giãn cách và cách ly xã hội nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh đã khiến nhiều đường bay quốc tế phải dừng khai thác. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, trong năm 2020, lượng khách quốc tế vào Việt Nam đạt 3,6 triệu người, tập trung vào 3 tháng đầu năm. Sản lượng vận chuyển hành khách năm 2020 giảm 54,1% so với năm ngoái về mức 36,3 triệu lượt hành khách.

Theo thống kê của Hiệp hội Hàng không Việt Nam (VABA), trước đại dịch, hàng năm doanh thu vận tải hàng không tăng bình quân từ 15%-20%. Tuy nhiên, dịch Covid 19 đã khiến doanh thu năm 2020 của các hãng hàng không Việt giảm trên 60% (khoảng 100.000 tỷ đồng). Vietnam Airlines (HN:HVN), Vietjet (HM:VJC), Bamboo Airways lỗ khoảng 16.000 tỷ đồng. Hiện nay, nợ ngắn hạn và nợ đến hạn phải trả của 3 hãng đã lên tới 36.000 tỷ đồng (riêng Vietnam Airlines 20.000 tỷ đồng và có nguy cơ phá sản).

Năm 2021, thị trường hàng không Việt Nam biến động theo diễn biến dịch Covid-19. Đến thời điểm hiện tại, chỉ còn khoảng 30 hãng hàng không nước ngoài từ các nước Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Trung Đông và Pháp khai thác các chuyến bay chở hàng hóa, nhà ngoại giao, chuyên gia, nhà đầu tư, người lao động tay nghề cao, sinh viên nước ngoài... đi/đến Việt Nam. Trong điều kiện các đường bay quốc tế chở khách chưa thể khai thác trở lại, các hãng hàng không trong nước đã dùng phần lớn đội tàu bay vào khai thác đường bay nội địa.

Giai đoạn 6 tháng đầu năm có nhiều thời điểm số lượng chuyến bay cũng như lượng khách vận chuyển trên các đường bay nội địa cao hơn so với cùng thời điểm năm 2019. Thậm chí, các hãng hàng không không đủ slot để tăng tần suất trên nhiều đường bay nội địa. Tuy nhiên, đợt dịch lần 3 và 4 bùng phát mạnh vào đúng thời điểm bắt đầu giai đoạn cao điểm là Tết Nguyên đán và nghỉ hè,  bên cạnh đó TP.HCM (HM:HCM) thực hiện giãn cách xã hội toàn thành phố theo chỉ thị 15 từ ngày 31/5, đã khiến hoạt động vận chuyển hành khách nội địa bằng đường hàng không sụt giảm nghiêm trọng.

Sản lượng hàng ngày giảm chỉ còn 20% - 30% so với giai đoạn tháng 3 và 4. Thậm chí, các ngày của hai tuần đầu tháng 6 chỉ tương ứng 5% - 10% lượng vận chuyển trung bình tháng 4. Sản lượng thông qua các cảng hàng không 6 tháng đầu năm nay ước đạt 26,8 triệu lượt hành khách và 668.000 tấn hàng hóa, lần lượt giảm 19,4% và tăng 12,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Bên cạnh đó, 2 đợt dịch này cũng khiến doanh thu hàng không giảm sâu (riêng tháng 5 và 6 doanh thu giảm 90% so với cùng kỳ 2020). Tuy nhiên, để duy trì hoạt động tối thiểu trong mùa dịch, các hãng phải chi trên 100 tỷ đồng/ngày mặc dù lỗ lớn. Tính đến thời điểm này, các nguồn lực về tài sản, tài chính tích lũy của các hãng hàng không Việt đã cạn kiệt, cơ hội tiếp cận vốn vay khó khăn, chi phí vay vốn cao. Vì thế, VABA đề xuất "sớm mở rộng và thực hiện chương trình hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp hàng không".

Về hạ tầng cảng hàng không, trong nửa đầu năm 2021, ngành hàng không đã hoàn thành đúng tiến độ và đưa vào khai thác giai đoạn 1 dự án cải tạo đường cất hạ cánh tại cả 2 cảng hàng không quốc tế Nội Bài và Tân Sơn Nhất. Hiện tại, giai đoạn 2 dự án cải tạo đường cất hạ cánh 1B cảng hàng không quốc tế Nội Bài cũng đang được gấp rút thi công và dự kiến sẽ hoàn thành đúng kế hoạch trong tháng 7. Dự án được kỳ vọng sẽ kịp thời đáp ứng nhu cầu khai thác trở lại của các hãng hàng không sau đợt bùng phát dịch Covid lần thứ 4.

Hot Auto Trade Bot Phương Thức Thanh Toán
BROKERS ĐƯỢC CẤP PHÉP
net_home_top Ai VIF
01-05-2024 10:45:17 (UTC+7)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

GBP/USD

1.2475

-0.0015 (-0.12%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

USD/JPY

157.91

+0.12 (+0.07%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

AUD/USD

0.6469

-0.0003 (-0.05%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

USD/CAD

1.3780

+0.0003 (+0.03%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (7)

Sell (0)

EUR/JPY

168.32

+0.10 (+0.06%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

EUR/CHF

0.9808

+0.0001 (+0.01%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (2)

Gold Futures

2,295.80

-7.10 (-0.31%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Silver Futures

26.677

+0.023 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (2)

Sell (10)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Copper Futures

4.5305

-0.0105 (-0.23%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (8)

Sell (1)

Crude Oil WTI Futures

81.14

-0.79 (-0.96%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Brent Oil Futures

85.62

-0.71 (-0.82%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (1)

Sell (11)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Natural Gas Futures

1.946

-0.009 (-0.46%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (5)

US Coffee C Futures

213.73

-13.77 (-6.05%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

Euro Stoxx 50

4,920.55

-60.54 (-1.22%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

S&P 500

5,035.69

-80.48 (-1.57%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

DAX

17,921.95

-196.37 (-1.08%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

FTSE 100

8,144.13

-2.90 (-0.04%)

Summary

Sell

Moving Avg:

Buy (5)

Sell (7)

Indicators:

Buy (2)

Sell (4)

Hang Seng

17,763.03

+16.12 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

US Small Cap 2000

1,973.05

-42.98 (-2.13%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

IBEX 35

10,854.40

-246.40 (-2.22%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (6)

Sell (6)

Indicators:

Buy (3)

Sell (3)

BASF SE NA O.N.

49.155

+0.100 (+0.20%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Bayer AG NA

27.35

-0.24 (-0.87%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (8)

Allianz SE VNA O.N.

266.60

+0.30 (+0.11%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (5)

Adidas AG

226.40

-5.90 (-2.54%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (7)

Deutsche Lufthansa AG

6.714

-0.028 (-0.42%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (9)

Sell (1)

Siemens AG Class N

175.90

-1.74 (-0.98%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Deutsche Bank AG

15.010

-0.094 (-0.62%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (6)

Sell (2)

    EUR/USD 1.0658 ↑ Sell  
    GBP/USD 1.2475 ↑ Sell  
    USD/JPY 157.91 ↑ Buy  
    AUD/USD 0.6469 Neutral  
    USD/CAD 1.3780 ↑ Buy  
    EUR/JPY 168.32 ↑ Buy  
    EUR/CHF 0.9808 Neutral  
    Gold 2,295.80 ↑ Sell  
    Silver 26.677 ↑ Sell  
    Copper 4.5305 ↑ Buy  
    Crude Oil WTI 81.14 ↑ Sell  
    Brent Oil 85.62 ↑ Sell  
    Natural Gas 1.946 ↑ Sell  
    US Coffee C 213.73 ↑ Sell  
    Euro Stoxx 50 4,920.55 ↑ Sell  
    S&P 500 5,035.69 ↑ Sell  
    DAX 17,921.95 ↑ Sell  
    FTSE 100 8,144.13 Sell  
    Hang Seng 17,763.03 ↑ Sell  
    Small Cap 2000 1,973.05 ↑ Sell  
    IBEX 35 10,854.40 Neutral  
    BASF 49.155 ↑ Sell  
    Bayer 27.35 ↑ Sell  
    Allianz 266.60 ↑ Sell  
    Adidas 226.40 ↑ Sell  
    Lufthansa 6.714 Neutral  
    Siemens AG 175.90 ↑ Sell  
    Deutsche Bank AG 15.010 Neutral  
Mua/Bán 1 chỉ SJC
# So hôm qua # Chênh TG
SJC Eximbank8,300/ 8,500
(8,300/ 8,500) # 1,298
SJC 1L, 10L, 1KG8,300/ 8,520
(0/ 0) # 1,510
SJC 1c, 2c, 5c7,380/ 7,550
(0/ 0) # 540
SJC 0,5c7,380/ 7,560
(0/ 0) # 550
SJC 99,99%7,370/ 7,470
(0/ 0) # 460
SJC 99%7,196/ 7,396
(0/ 0) # 386
Cập nhật 01-05-2024 10:45:19
Xem lịch sử giá vàng SJC: nhấn đây!
ↀ Giá vàng thế giới
$2,285.72 -47.5 -2.04%
Live 24 hour Gold Chart
ʘ Giá bán lẻ xăng dầu
Sản phẩm Vùng 1 Vùng 2
RON 95-V25.44025.940
RON 95-III24.91025.400
E5 RON 92-II23.91024.380
DO 0.05S20.71021.120
DO 0,001S-V21.32021.740
Dầu hỏa 2-K20.68021.090
ↂ Giá dầu thô thế giới
WTI $80.83 +3.39 0.04%
Brent $85.50 +3.86 0.05%
$ Tỷ giá Vietcombank
Ngoại tệMua vàoBán ra
USD25.088,0025.458,00
EUR26.475,3627.949,19
GBP30.873,5232.211,36
JPY156,74166,02
KRW15,9219,31
Cập nhật lúc 10:45:15 01/05/2024
Xem bảng tỷ giá hối đoái
Phương Thức Thanh Toán