net_left Kdata Phương Thức Thanh Toán
Phương Thức Thanh Toán

Trái phiếu Chính phủ hút khách rất mạnh. Thị trường Việt Nam 28/7

Theo Dong Hai AiVIF.com – Trong chuyển động phiên giao dịch sáng hôm nay thứ Tư ngày 28/7 sẽ có 3 thông tin mới nhất được cập nhật: Trái phiếu Chính phủ hút khách rất mạnh, IMF...
Trái phiếu Chính phủ hút khách rất mạnh. Thị trường Việt Nam 28/7 © Reuters.

Theo Dong Hai

AiVIF.com – Trong chuyển động phiên giao dịch sáng hôm nay thứ Tư ngày 28/7 sẽ có 3 thông tin mới nhất được cập nhật: Trái phiếu Chính phủ hút khách rất mạnh, IMF tiếp tục giữ dự báo tăng trưởng tại Việt Nam đồng thời hạ dự báo đối với Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan và ACBS dự báo thị trường bất động sản có thể trầm lắng trong quý III. Bên cạnh đó, diễn biến dịch bệnh Covid-19 vẫn rất phức tạp trên địa bàn TP.HCM (HM:HCM), người dân nên tiếp tục nghiêm túc thực hiện các chỉ đạo từ chính phủ, vì sức khỏe cộng đồng và vì sức khỏe của chính chúng ta, hãy chỉ ra ngoài khi thật cần thiết. Dưới đây là nội dung chính các tin tức hôm nay.

1. Trái phiếu Chính phủ hút khách rất mạnh

Theo bản tin trái phiếu tuần từ 19 - 23/7 vừa được Công ty Chứng khoán Bảo Việt (HN:BVS) công bố, trong tuần qua, Kho bạc Nhà nước tổ chức gọi thầu tại 4 loại kỳ hạn: 5 năm, 10 năm, 15 năm và 30 năm. Khối lượng gọi thầu cho 4 loại kỳ hạn trên lần lượt ở mức 1.500 tỷ, 3.000 tỷ, 3.000 và 1.500 tỷ đồng.

Kết quả, lượng đặt thầu cho kỳ hạn 5 năm bằng 2,8 giá trị gọi thầu và tỷ lệ trúng thầu đạt 100% tại mức lãi suất 1,05% - giảm 0,03% so với lần trúng thầu gần nhất. Lượng đặt thầu cho kỳ hạn bằng 10 năm bằng 2,67 giá trị gọi thầu và tỷ lệ trúng thầu đạt 80% tại mức lãi suất 2,15% - không đổi so với lần trúng thầu gần nhất. Lượng đặt thầu cho kỳ hạn 15 năm bằng 2,6 lần giá trị gọi thầu và tỷ lệ trúng thầu đạt 76% tại mức lãi suất 2,43% - không đổi so với lần trúng thầu gần nhất. Lượng đặt thầu cho kỳ hạn 30 năm bằng 1,5 lần giá trị gọi thầu và tỷ lệ trúng thầu đạt 100% tại mức lãi suất 3,05% - không thay đổi so với lần trúng thầu gần nhất.

Như vậy, luỹ kế từ đầu năm tới nay, KBNN đã phát hành tổng cộng trên 163 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, hoàn thành 46% kế hoạch phát hành của cả năm 2021 và 18% kế hoạch của quý 3.

2. IMF tiếp tục giữ dự báo tăng trưởng tại Việt Nam đồng thời hạ dự báo đối với Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan

Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF vừa công bố một bản cập nhật cho báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới (WEO). Trong đó, tổ chức này đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế năm nay cho khu vực châu Á mới nổi. Việc tổ chức hạ dự báo là do sự gia tăng đột biến các trường hợp nhiễm Covid-19 từ các biến thể mới và thách thức từ việc tiêm chủng chậm có thể làm ảnh hưởng đến triển vọng phục hồi của khu vực.

Bên cạnh đó, động thái hạ dự báo cho khu vực này, cùng với sự điều chỉnh tăng trong dự báo của IMF dành cho các quốc gia tiên tiến, làm nổi bật sự phân hóa giữa khu vực về tốc độ phục hồi sau các cuộc khủng hoảng do đại dịch gây ra.

Trong báo cáo mới công bố, IMF dự báo khu vực châu Á mới nổi sẽ tăng trưởng 7,5% trong năm nay, giảm 1,1% so với dự báo trước đó được đưa ra vào hồi tháng 4. IMF cũng hạ 0,4 điểm % cho dự báo đối với các nền kinh tế mới nổi trên toàn cầu.

IMF cho biết: "Triển vọng tăng trưởng ở Ấn Độ đã bị hạ thấp sau làn sóng Covid-19 thứ hai nghiêm trọng trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 5, và dự kiến, ​​niềm tin sẽ phục hồi chậm lại từ đó". IMF đã cắt giảm dự báo tăng trưởng năm nay của Ấn Độ 3,0 điểm xuống còn 9,5%. Dự báo cho nhóm ASEAN-5 bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam đã giảm 0,6 điểm xuống 4,3%.

Dự báo năm 2021 của Trung Quốc được điều chỉnh giảm 0,3 điểm xuống 8,1% do đầu tư công và hỗ trợ tài khóa chậm lại. Đối với năm 2022, IMF nâng dự báo tăng trưởng của khu vực châu Á mới nổi thêm 0,4 điểm lên 6,4%.

Đông Nam Á đã trở thành điểm nóng Covid-19 với sự xuất hiện của biến thể Delta, buộc các quốc gia phải áp đặt các lệnh cấm đi lại và các biện pháp giãn cách, đang ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng. Cụ thể trong khu vực Đông Nam Á, dự báo tăng trưởng cho Indonesia hạ 0,4 điểm % xuống còn 3,9%; Malaysia hạ 1,8 điểm % xuống còn 4,7%; Philippines hạ 1,5 điểm % xuống còn 5,4% và Thái Lan hạ 0,5 điểm % xuống còn 2,1%. Trong báo cáo lần này, IMF chưa đề cập đến sự thay đổi cho dự báo tăng trưởng của Việt Nam.

3. ACBS dự báo thị trường bất động sản có thể trầm lắng trong quý III

Báo cáo ngành bất động sản của Công ty chứng khoán ACBS đánh giá thị trường đã hồi phục nhẹ trong nửa đầu năm nhưng có thể bước vào giai đoạn trầm lắng trong quý III do biến thể Delta lây lan nhanh làm làn sóng Covid thứ 4 diễn biến nghiêm trọng và khó lường hơn trước. ACBS kỳ vọng Chính phủ sẽ ngăn chặn sự lây lan của virus trong quý III và thị trường bất động sản sẽ phục hồi trở lại vào quý IV.

Nguồn cung căn hộ tại TP.HCM năm nay dự kiến tương đương năm trước trong khi nhà phố/biệt thự có thể giảm mạnh. Hà Nội dự kiến có sự tăng trưởng khá về nguồn cung căn hộ, nhà phố/biệt thự chủ yếu nhờ các dự án mở bán mới như Vinhomes (HM:VHM) Cổ Loa, Vinhomes Wonder Park và Sunshine Empire. Nhu cầu mua nhà vẫn mạnh, đặc biệt là tầng lớp trung lưu và giàu có. Giá bán sơ cấp sẽ tiếp tục xu hướng tăng nhờ nguồn cung hạn chế và hệ thống cơ sở hạ tầng được cải thiện. TP.HCM và Hà Nội sẽ chào đón thêm các dự án nhà ở có thương hiệu dành cho tầng lớp sở hữu từ 1 triệu USD trở lên do số người thuộc lớp này dự kiến tăng 32% giai đoạn 2020 - 2025, theo Knight Frank. Mặt khác, nguồn cung dự án căn hộ bình dân (giá bán sơ cấp dưới 1.000 USD/m2) sẽ tiếp tục khan hiếm dù nhu cầu rất cao.

Các khu đô thị tích hợp quy mô lớn tại các quận, huyện ngoại thành TP HCM (Hóc Môn, Bình Chánh, Nhà Bè, Củ Chi, Cần Giờ) và Hà Nội (Hoài Đức, Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Đan Phượng) và các tỉnh lân cận như Bình Dương, Đồng Nai, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Ninh... sẽ dẫn đầu về nguồn cung mới, tiếp tục thu hút các nhà đầu tư.

Các chủ đầu tư và ngân hàng sẽ tiếp tục hợp tác để đưa ra lịch thanh toán và gói vay mua nhà hấp dẫn như thanh toán 30% đến khi nhận nhà, cho vay tới 100% giá trị căn hộ, thời hạn vay mua nhà đến 35 năm... Lãi suất vay thấp và tương đối ổn định như hiện nay sẽ tiếp tục kích cầu thị trường bất động sản.

Ngoài ra, Bình Dương và Đồng Nai đang là 2 thị trường tiềm năng nhờ vấn đề cấp phép dự án tại TP HCM gặp khó khăn, tiến độ các dự án kết nối hạ tầng từ TP.HCM tới 2 tỉnh này được đẩy mạnh, giá bán tại các tỉnh thấp hơn TP.HCM.

  • Trong 6 tháng đầu năm, Bình Dương có 2.800 căn hộ mới và 700 đất nền được mở bán, tỷ lệ hấp thụ lần lượt 80% và 82%, theo DKRA. Thị trường này có một số yếu tố thuận lợi như TP Dĩ An, Thuận An được thành lập tháng 2/2020; Giá bán căn hộ sơ cấp khoảng 1.400 - 1.900 USD/m2, thấp hơn TP.HCM (1.700 - 17.000 USD/m2); Tăng trưởng dân số trung bình giai đoạn 2009 - 2019 cao nhất nước (4,93%). Bình Dương cũng là một trong những trung tâm công nghiệp phát triển nhất phía Nam, đứng thứ 2 về thu hút vốn FDI tính đến tháng 6. Tăng trưởng kinh tế của Bình Dương vượt Hà Nội và TP.HCM trong năm 2020 và 6 tháng năm 2021.
  • Đối với Đồng Nai, trong nửa đầu năm, gần 1.500 nền đất mới và hơn 3.700 căn nhà phố/biệt thự được mở bán trong khi TP.HCM không có nguồn cung đất nền trong 4 quý liên tiếp. Sức hút từ thị trường này đến từ vị trí gần TP.HCM, có quỹ đất dọc bờ sông phù hợp phát triển các khu đô thị, nhiều dự án hạ tầng trọng điểm như sân bay Long Thành, cao tốc Bến Lức - Long Thành, cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu, cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết. Đồng Nai cũng là một trong những trung tâm công nghiệp phát triển nhất phía Nam, có GRDP cao hơn TP.HCM và đứng thứ 5 về thu hút FDI tính đến 6/2021.
Hot Auto Trade Bot Phương Thức Thanh Toán
BROKERS ĐƯỢC CẤP PHÉP
net_home_top Ai VIF
01-05-2024 10:45:17 (UTC+7)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

GBP/USD

1.2475

-0.0015 (-0.12%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

USD/JPY

157.91

+0.12 (+0.07%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

AUD/USD

0.6469

-0.0003 (-0.05%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

USD/CAD

1.3780

+0.0003 (+0.03%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (7)

Sell (0)

EUR/JPY

168.32

+0.10 (+0.06%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

EUR/CHF

0.9808

+0.0001 (+0.01%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (2)

Gold Futures

2,295.80

-7.10 (-0.31%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Silver Futures

26.677

+0.023 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (2)

Sell (10)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Copper Futures

4.5305

-0.0105 (-0.23%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (8)

Sell (1)

Crude Oil WTI Futures

81.14

-0.79 (-0.96%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Brent Oil Futures

85.62

-0.71 (-0.82%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (1)

Sell (11)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Natural Gas Futures

1.946

-0.009 (-0.46%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (5)

US Coffee C Futures

213.73

-13.77 (-6.05%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

Euro Stoxx 50

4,920.55

-60.54 (-1.22%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

S&P 500

5,035.69

-80.48 (-1.57%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

DAX

17,921.95

-196.37 (-1.08%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

FTSE 100

8,144.13

-2.90 (-0.04%)

Summary

Sell

Moving Avg:

Buy (5)

Sell (7)

Indicators:

Buy (2)

Sell (4)

Hang Seng

17,763.03

+16.12 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

US Small Cap 2000

1,973.05

-42.98 (-2.13%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

IBEX 35

10,854.40

-246.40 (-2.22%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (6)

Sell (6)

Indicators:

Buy (3)

Sell (3)

BASF SE NA O.N.

49.155

+0.100 (+0.20%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Bayer AG NA

27.35

-0.24 (-0.87%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (8)

Allianz SE VNA O.N.

266.60

+0.30 (+0.11%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (5)

Adidas AG

226.40

-5.90 (-2.54%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (7)

Deutsche Lufthansa AG

6.714

-0.028 (-0.42%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (9)

Sell (1)

Siemens AG Class N

175.90

-1.74 (-0.98%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Deutsche Bank AG

15.010

-0.094 (-0.62%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (6)

Sell (2)

    EUR/USD 1.0658 ↑ Sell  
    GBP/USD 1.2475 ↑ Sell  
    USD/JPY 157.91 ↑ Buy  
    AUD/USD 0.6469 Neutral  
    USD/CAD 1.3780 ↑ Buy  
    EUR/JPY 168.32 ↑ Buy  
    EUR/CHF 0.9808 Neutral  
    Gold 2,295.80 ↑ Sell  
    Silver 26.677 ↑ Sell  
    Copper 4.5305 ↑ Buy  
    Crude Oil WTI 81.14 ↑ Sell  
    Brent Oil 85.62 ↑ Sell  
    Natural Gas 1.946 ↑ Sell  
    US Coffee C 213.73 ↑ Sell  
    Euro Stoxx 50 4,920.55 ↑ Sell  
    S&P 500 5,035.69 ↑ Sell  
    DAX 17,921.95 ↑ Sell  
    FTSE 100 8,144.13 Sell  
    Hang Seng 17,763.03 ↑ Sell  
    Small Cap 2000 1,973.05 ↑ Sell  
    IBEX 35 10,854.40 Neutral  
    BASF 49.155 ↑ Sell  
    Bayer 27.35 ↑ Sell  
    Allianz 266.60 ↑ Sell  
    Adidas 226.40 ↑ Sell  
    Lufthansa 6.714 Neutral  
    Siemens AG 175.90 ↑ Sell  
    Deutsche Bank AG 15.010 Neutral  
Mua/Bán 1 chỉ SJC
# So hôm qua # Chênh TG
SJC Eximbank8,300/ 8,500
(8,300/ 8,500) # 1,298
SJC 1L, 10L, 1KG8,300/ 8,520
(0/ 0) # 1,510
SJC 1c, 2c, 5c7,380/ 7,550
(0/ 0) # 540
SJC 0,5c7,380/ 7,560
(0/ 0) # 550
SJC 99,99%7,370/ 7,470
(0/ 0) # 460
SJC 99%7,196/ 7,396
(0/ 0) # 386
Cập nhật 01-05-2024 10:45:19
Xem lịch sử giá vàng SJC: nhấn đây!
ↀ Giá vàng thế giới
$2,285.72 -47.5 -2.04%
Live 24 hour Gold Chart
ʘ Giá bán lẻ xăng dầu
Sản phẩm Vùng 1 Vùng 2
RON 95-V25.44025.940
RON 95-III24.91025.400
E5 RON 92-II23.91024.380
DO 0.05S20.71021.120
DO 0,001S-V21.32021.740
Dầu hỏa 2-K20.68021.090
ↂ Giá dầu thô thế giới
WTI $80.83 +3.39 0.04%
Brent $85.50 +3.86 0.05%
$ Tỷ giá Vietcombank
Ngoại tệMua vàoBán ra
USD25.088,0025.458,00
EUR26.475,3627.949,19
GBP30.873,5232.211,36
JPY156,74166,02
KRW15,9219,31
Cập nhật lúc 10:45:15 01/05/2024
Xem bảng tỷ giá hối đoái
Phương Thức Thanh Toán