net_left Kdata Phương Thức Thanh Toán
Phương Thức Thanh Toán

VDSC: Triển vọng kinh tế sẽ trở nên tồi tệ trước khi phục hồi mạnh mẽ

AiVIF - VDSC: Triển vọng kinh tế sẽ trở nên tồi tệ trước khi phục hồi mạnh mẽTheo Báo cáo chiến lược đầu tư tháng 8/2021, CTCK Rồng Việt (VDSC) tin rằng việc hoàn thành mục...
VDSC: Triển vọng kinh tế sẽ trở nên tồi tệ trước khi phục hồi mạnh mẽ VDSC: Triển vọng kinh tế sẽ trở nên tồi tệ trước khi phục hồi mạnh mẽ

AiVIF - VDSC: Triển vọng kinh tế sẽ trở nên tồi tệ trước khi phục hồi mạnh mẽ

Theo Báo cáo chiến lược đầu tư tháng 8/2021, CTCK Rồng Việt (VDSC) tin rằng việc hoàn thành mục tiêu vắc-xin nhanh hơn và các hỗ trợ chính sách kịp thời sẽ làm giảm nguy cơ suy giảm kinh tế. Nếu nền kinh tế ghi nhận mức tăng trưởng GDP âm trong quý 3/2021, VDSC nhận thấy khả năng tiếp tục chính sách cắt giảm lãi suất và gói tài khóa khác sẽ hỗ trợ nền kinh tế.

Nền kinh tế Việt Nam đang đối diện nhiều khó khăn do đợt bùng phát dịch lần thứ 4. Sau khi đạt được nhiều thành tựu từ việc kiểm soát tốt dịch Covid-19 trong năm ngoái, Việt Nam hiện đang chống chọi với đợt bùng phát tồi tệ nhất do biến thể Delta lây lan nhanh chóng hơn.

Trong giai đoạn từ tháng 5-6, những nỗ lực của Chính phủ nhằm kiểm soát đại dịch ở miền Bắc đã giúp cả nước đạt mức tăng trưởng GDP 6.6% trong quý 2/2021, nhưng tình hình ngày càng trở nên tồi tệ hơn khi TPHCM và các tỉnh lân cận đang phải vật lộn với diễn biến xấu nhất từ làn sóng bùng phát Covid-19 mới nhất. VDSC ước tính các ngành kinh tế đang hoạt động dưới 60% công suất.

Bước sang quý 3/2021, hoạt động kinh tế mất đà tăng trưởng đạt được trong nửa đầu năm 2021 do các biện pháp ngăn chặn chặt chẽ được áp dụng để kiểm soát sự gia tăng các ca nhiễm Covid-19 mới. Tháng 7/2021, Thành phố Hồ Chí Minh, tâm dịch cũng như đầu mối kinh tế của cả nước, đã ghi nhận mức giảm 19.4% trong sản xuất công nghiệp và giảm 5.8% trong doanh số bán lẻ. Các ngành du lịch, khách sạn và hàng không gần như đi vào bế tắc, các ngành dịch vụ và xây dựng khác cũng gánh chịu hậu quả nặng nề trong khi tăng trưởng trong lĩnh vực sản xuất bị kéo xuống mức thấp.

Việc triển khai tiêm chủng vô cùng cấp bách để hoạt động kinh doanh trở lại bình thường

Hiện tại, việc triển khai vắc xin tại TPHCM là bước quan trọng để dần dần nới lỏng tình trạng giãn cách xã hội và cho phép nhiều hoạt động kinh tế hoạt động bình thường hơn. Thành phố đang đặt mục tiêu tiêm ít nhất một mũi cho 70% công dân trên tổng 9 triệu người dân vào tháng 8. Tính đến ngày 31/07, TPHCM đã có khoảng 1.5 triệu người được tiêm ngừa và hơn 73 ngàn người được tiêm 2 mũi. Tỷ lệ tiêm hàng ngày từ 70,000-80,000 liều và dự kiến tăng lên 100,000 liều trong thời gian tới. VDSC ước tính TPHCM cần ít nhất 3.6 triệu liều nữa để tiêm chủng cho 70% người dân trong tháng 8, điều này có thể đạt được nhờ nguồn cung sẵn có trong việc phân bổ vắc xin cho thành phố (tương đương 5 triệu liều).

Triển vọng kinh tế sẽ trở nên tồi tệ trước khi phục hồi mạnh mẽ

Theo quan điểm của VDSC, triển vọng kinh tế nửa cuối năm sẽ phụ thuộc vào hiệu quả của việc ngăn chặn dịch bệnh và tiến độ tiêm vắc xin. Theo quy định của Chính phủ về đánh giá mức độ rủi ro Covid-19 , nếu tỷ lệ người dân xét nghiệm dương tính với vi rút dưới 1/100,000 dân (tức là TPHCM dưới 100 trường hợp) trong ít nhất 2 tuần, thì thành phố sẽ được xét ở mức “Bình thường mới”. Do mức độ phức tạp của đợt bùng phát ở TPHCM, VDSC cho rằng đại dịch khó có thể kiểm soát nhanh chóng.

Theo các giả định về trường hợp cơ sở của VDSC, VDSC cho rằng các chỉ thị nghiêm ngặt sẽ được áp dụng vào tháng 8/2021, sự đẩy nhanh tiến độ tiêm chủng cho thấy TPHCM đang dần có những bước chuẩn bị cho việc mở cửa trở lại trong quý 4/2021. Do đó, VDSC cho rằng chi tiêu hộ gia đình và các ngành dịch vụ sẽ tăng trưởng âm trong quý 3/2021. Trong quý 4/2021, nếu không có các chính sách hỗ trợ mạnh mẽ hơn, VDSC kỳ vọng hoạt động kinh tế sẽ phục hồi ở mức thấp do những ảnh hưởng sâu sắc từ đại dịch lên thị trường lao động, gián đoạn chuỗi cung ứng và ngân sách của Chính phủ, bảng cân đối của doanh nghiệp và túi tiền hộ gia đình. Bên cạnh đó, việc thúc đẩy tiến độ đầu tư công có thể không như mong muốn do các biện pháp kiểm soát Covid-19, và Chính phủ có thể cần phải sử dụng nguồn lực tài khóa cho mục tiêu phòng chống dịch.

VDSC đã điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP năm 2021 của Việt Nam xuống 4% so với ước tính trước đó là 5.6% với các ước tính về sản xuất, tiêu dùng và đầu tư được cắt giảm để phản ánh tác động tiêu cực của việc áp dụng các chính sách thắt chặt đối với các hoạt động trong nước và năng lực sản xuất cũng như việc nâng cao các biện pháp phòng ngừa của Covid-19. Nếu các biện pháp thắt chặt tiếp tục kéo dài sau tháng 8, dự báo của VDSC có thể tiếp tục suy giảm. Ngoài ra, rủi ro về hạn chế nguồn cung vắc xin có thể khiến Việt Nam chịu áp lực trong việc phục hồi kinh tế trong quý 4/2021. Mặt khác, VDSC tin rằng việc hoàn thành mục tiêu vắc-xin nhanh hơn và các hỗ trợ chính sách kịp thời sẽ làm giảm nguy cơ suy giảm kinh tế. Nếu nền kinh tế ghi nhận mức tăng trưởng GDP âm trong quý 3/2021, VDSC nhận thấy khả năng tiếp tục chính sách cắt giảm lãi suất và gói tài khóa khác sẽ hỗ trợ nền kinh tế.

Vào năm 2022, VDSC cho rằng ít khả năng xảy ra các đợt cách ly xã hội trên diện rộng, điều này tạo nền tảng khả quan hơn cho triển vọng tăng trưởng kinh tế trở lại. Cụ thể, kịch bản cơ sở của VDSC giả định rằng Việt Nam sẽ đạt được tình trạng “Bình thường mới” - khi 70% dân số hoàn thành việc tiêm chủng - điều này sẽ cho phép hầu hết ngành kinh tế mở cửa trở lại, việc lưu thông giữa các tỉnh được tiếp tục và nới lỏng hơn đối với các hoạt động xã hội. VDSC dự báo GDP của Việt Nam sẽ tăng 6.5% vào năm 2022, với sự phục hồi trong lĩnh vực sản xuất và chi tiêu tiêu dùng cá nhân. Rủi ro đối với dự báo của VDSC vẫn nghiêng về phía giảm do sự không chắc chắn về dịch Covid-19, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và gián đoạn chuỗi cung ứng, các tác động kinh tế tiêu cực kéo dài lên hộ gia đình và doanh nghiệp và hạn chế về chính sách hỗ trợ. Do khả năng xảy ra các làn sóng Delta và các biến thể mới sẽ đi kèm cùng các biện pháp kiểm soát dịch bệnh là một rủi ro rõ rệt vào năm 2022, sự phục hồi sẽ còn khó khăn và tương đối chậm đối với một số lĩnh vực như du lịch, lữ hành và bán lẻ.

Minh Hồng

Hot Auto Trade Bot Phương Thức Thanh Toán
BROKERS ĐƯỢC CẤP PHÉP
net_home_top Ai VIF
01-05-2024 10:45:17 (UTC+7)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

GBP/USD

1.2475

-0.0015 (-0.12%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

USD/JPY

157.91

+0.12 (+0.07%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

AUD/USD

0.6469

-0.0003 (-0.05%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

USD/CAD

1.3780

+0.0003 (+0.03%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (7)

Sell (0)

EUR/JPY

168.32

+0.10 (+0.06%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

EUR/CHF

0.9808

+0.0001 (+0.01%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (2)

Gold Futures

2,295.80

-7.10 (-0.31%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Silver Futures

26.677

+0.023 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (2)

Sell (10)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Copper Futures

4.5305

-0.0105 (-0.23%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (8)

Sell (1)

Crude Oil WTI Futures

81.14

-0.79 (-0.96%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Brent Oil Futures

85.62

-0.71 (-0.82%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (1)

Sell (11)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Natural Gas Futures

1.946

-0.009 (-0.46%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (5)

US Coffee C Futures

213.73

-13.77 (-6.05%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

Euro Stoxx 50

4,920.55

-60.54 (-1.22%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

S&P 500

5,035.69

-80.48 (-1.57%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

DAX

17,921.95

-196.37 (-1.08%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

FTSE 100

8,144.13

-2.90 (-0.04%)

Summary

Sell

Moving Avg:

Buy (5)

Sell (7)

Indicators:

Buy (2)

Sell (4)

Hang Seng

17,763.03

+16.12 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

US Small Cap 2000

1,973.05

-42.98 (-2.13%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

IBEX 35

10,854.40

-246.40 (-2.22%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (6)

Sell (6)

Indicators:

Buy (3)

Sell (3)

BASF SE NA O.N.

49.155

+0.100 (+0.20%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Bayer AG NA

27.35

-0.24 (-0.87%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (8)

Allianz SE VNA O.N.

266.60

+0.30 (+0.11%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (5)

Adidas AG

226.40

-5.90 (-2.54%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (7)

Deutsche Lufthansa AG

6.714

-0.028 (-0.42%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (9)

Sell (1)

Siemens AG Class N

175.90

-1.74 (-0.98%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Deutsche Bank AG

15.010

-0.094 (-0.62%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (6)

Sell (2)

    EUR/USD 1.0658 ↑ Sell  
    GBP/USD 1.2475 ↑ Sell  
    USD/JPY 157.91 ↑ Buy  
    AUD/USD 0.6469 Neutral  
    USD/CAD 1.3780 ↑ Buy  
    EUR/JPY 168.32 ↑ Buy  
    EUR/CHF 0.9808 Neutral  
    Gold 2,295.80 ↑ Sell  
    Silver 26.677 ↑ Sell  
    Copper 4.5305 ↑ Buy  
    Crude Oil WTI 81.14 ↑ Sell  
    Brent Oil 85.62 ↑ Sell  
    Natural Gas 1.946 ↑ Sell  
    US Coffee C 213.73 ↑ Sell  
    Euro Stoxx 50 4,920.55 ↑ Sell  
    S&P 500 5,035.69 ↑ Sell  
    DAX 17,921.95 ↑ Sell  
    FTSE 100 8,144.13 Sell  
    Hang Seng 17,763.03 ↑ Sell  
    Small Cap 2000 1,973.05 ↑ Sell  
    IBEX 35 10,854.40 Neutral  
    BASF 49.155 ↑ Sell  
    Bayer 27.35 ↑ Sell  
    Allianz 266.60 ↑ Sell  
    Adidas 226.40 ↑ Sell  
    Lufthansa 6.714 Neutral  
    Siemens AG 175.90 ↑ Sell  
    Deutsche Bank AG 15.010 Neutral  
Mua/Bán 1 chỉ SJC
# So hôm qua # Chênh TG
SJC Eximbank8,300/ 8,500
(8,300/ 8,500) # 1,298
SJC 1L, 10L, 1KG8,300/ 8,520
(0/ 0) # 1,510
SJC 1c, 2c, 5c7,380/ 7,550
(0/ 0) # 540
SJC 0,5c7,380/ 7,560
(0/ 0) # 550
SJC 99,99%7,370/ 7,470
(0/ 0) # 460
SJC 99%7,196/ 7,396
(0/ 0) # 386
Cập nhật 01-05-2024 10:45:19
Xem lịch sử giá vàng SJC: nhấn đây!
ↀ Giá vàng thế giới
$2,285.72 -47.5 -2.04%
Live 24 hour Gold Chart
ʘ Giá bán lẻ xăng dầu
Sản phẩm Vùng 1 Vùng 2
RON 95-V25.44025.940
RON 95-III24.91025.400
E5 RON 92-II23.91024.380
DO 0.05S20.71021.120
DO 0,001S-V21.32021.740
Dầu hỏa 2-K20.68021.090
ↂ Giá dầu thô thế giới
WTI $80.83 +3.39 0.04%
Brent $85.50 +3.86 0.05%
$ Tỷ giá Vietcombank
Ngoại tệMua vàoBán ra
USD25.088,0025.458,00
EUR26.475,3627.949,19
GBP30.873,5232.211,36
JPY156,74166,02
KRW15,9219,31
Cập nhật lúc 10:45:15 01/05/2024
Xem bảng tỷ giá hối đoái
Phương Thức Thanh Toán