net_left Kdata Phương Thức Thanh Toán
Phương Thức Thanh Toán

Xuất khẩu sang EU tăng 18% nhờ EVFTA. Thị trường Việt Nam 21/7

Theo Dong Hai AiVIF.com – Thị trường Việt Nam hôm nay có những tin tức gì? Xuất khẩu sang EU tăng 18% nhờ EVFTA. 32 công ty chứng khoán cho vay 128.600 tỷ đồng để đầu tư chứng...
Xuất khẩu sang EU tăng 18% nhờ EVFTA. Thị trường Việt Nam 21/7

Theo Dong Hai

AiVIF.com – Thị trường Việt Nam hôm nay có những tin tức gì? Xuất khẩu sang EU tăng 18% nhờ EVFTA. 32 công ty chứng khoán cho vay 128.600 tỷ đồng để đầu tư chứng khoán tới cuối quý II/2021. Standard Chartered và ADB hạ dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Dưới đây là 3 thông tin mới trong chuyển động thị trường Việt Nam phiên giao dịch hôm nay thứ Tư ngày 21/7.

1. Xuất khẩu sang EU tăng 18% nhờ EVFTA

Theo Bộ Công Thương, sau một năm thực thi Hiệp định Thương mại tự do song phương giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA), tình hình xuất nhập khẩu giữa hai bên có những tăng trưởng tích cực. Theo đó, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU trong 6 tháng đầu năm đạt gần 28 tỷ USD, tăng 18,5% so với tháng 6/2020, khi Hiệp định EVFTA chưa có hiệu lực. Xuất khẩu hàng hóa sang EU đạt 19,5 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang EU là giày dép, dệt may, rau quả, thuỷ sản, gạo, cà phê, điện thoại các loại và linh kiện, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện…

Ở chiều ngược lại, nhập khẩu hàng hóa từ EU về Việt Nam đạt 8,2 tỷ USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm 2020. Việt Nam chủ yếu nhập khẩu linh kiện, phụ tùng ô tô, ô tô nguyên chiếc, hàng điện gia dụng, linh kiện, chất thơm, mỹ phẩm và chế phẩm vệ sinh.

Thực tế, chỉ 5 tháng sau khi EVFTA có hiệu lực, nhiều mặt hàng nông, lâm nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đã có mức tăng trưởng đáng kể so với cùng kỳ năm 2019. Như xuất khẩu sản phẩm từ cao su đạt 61 triệu USD, tăng 57%; rau quả đạt 64 triệu USD, tăng 12,5%; gạo đạt 5,2 triệu USD, tăng 4%; sản phẩm mây, tre, cói và thảm đạt 70,5 triệu USD, tăng 34%.

2. 32 công ty chứng khoán cho vay 128.600 tỷ đồng để đầu tư chứng khoán tới cuối quý II/2021

Trong quý II, các chỉ số trên thị trường chứng khoán Việt Nam đều có sự tăng trưởng vượt bậc. Kết thúc phiên giao dịch cuối cùng của quý II, VN-Index đứng ở mức 1.408,55 điểm, tương ứng tăng 217,11 điểm (18,2%) so với cuối quý I. Tương tự, HNX-Index cũng tăng 36,65 điểm (12,8%) lên 323,32 điểm. UPCoM-Index tăng 9,11 điểm (11,2%) lên 90,25 điểm. Tổng khối lượng giao dịch bình quân quý II đạt 974,6 triệu cổ phiếu/phiên, tăng 10,5% so với quý I, giá trị giao dịch bình quân tăng đến 38% lên 26.300 tỷ đồng.

 Sự cải thiện thanh khoản trong quý vừa qua không thể không nhắc tới yếu tố hỗ trợ từ dòng tiền cho vay ký quỹ (margin) của các công ty chứng khoán (CTCK). Theo thống kê, dư nợ cho vay tại thời điểm 30/6 của 32 CTCK đã công bố báo cáo tài chính quý II đạt hơn 128.600 tỷ đồng dù trong danh sách này còn thiếu 2 cái tên có dư nợ cao ở quý trước là Chứng khoán KB Việt Nam (KBSV) và Chứng khoán Vietinbank (HM:CTG) (CTS). Mức dư nợ margin nói trên cao hơn 25,6% so với cuối quý I, tương ứng mức tăng là 26.200 tỷ đồng và cao hơn 52,8% so với cuối năm 2020 (44.450 tỷ đồng).

30 CTCK dẫn đầu có dư nợ cho vay lên tới 120.376 tỷ đồng, chiếm 94,6% tổng dư nợ kể trên, con số này cũng tăng 24,7% tương ứng 23.870 tỷ đồng so với cuối quý I.

Dòng tiền margin từ các nhà đầu tư nội  được cho là góp phần quan trọng giúp thị trường liên tục đi lên trong quý II, trong đó, VN-Index vượt qua mốc 1.400 điểm ngay trong tháng 6. Tuy nhiên, với lượng margin liên tục tăng thêm và duy trì ở mức cao, khiến nhiều công ty chứng khoán gặp phải tình trạng "căng margin" và dẫn đến những đợt rung lắc mạnh của thị trường như đợt đầu tháng 7 vừa qua.

Trước việc thị trường chứng khoán tiếp tục sôi động, nhiều CTCK muốn tăng nguồn cho vay margin. Để làm được việc này, CTCK cần tăng vốn chủ sở hữu, qua đó nâng giới hạn margin được phép cho vay. Thời gian qua, nhiều công ty chứng khoán có xu hướng chào bán tăng vốn điều lệ, vừa giúp tăng vốn chủ sở hữu - giúp gián tiếp tăng hạn mức cấp margin, vừa tạo nguồn cho vay khi việc huy động vốn từ trái phiếu đã không còn dễ dàng như năm ngoái do bị siết chặt lại bởi Nghị định số 81/2020/NĐ-CP có hiệu lực từ 1/9/2020.

Sau 8 quý liên tiếp đứng đầu về dư nợ cho vay của các CTCK, Chứng khoán Mirae Asset Việt Nam (MASVN) đã bị Chứng khoán SSI (HM:SSI) vượt qua ở quý II này. Trong đó, chỉ tiêu này của SSI (báo cáo công ty mẹ) đạt mức 16.159 tỷ đồng, tăng 45% so với cuối quý I. Trong khi đó, khoản này của MASVN là 15.111 tỷ đồng, tăng 8,8%.

Theo BCTC riêng mới công bố, doanh thu và lợi nhuận trước thuế quý II của SSI đạt lần lượt 1.741,8 tỷ đồng (tăng 33% so với cùng kỳ) và 703,5 tỷ đồng (tăng 8%), đây cũng là mức lợi nhuận trước thuế kỷ lục của CTCK này. Lũy kế 6 tháng đầu năm, doanh thu công ty đạt 3.244,9 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 1.231,7 tỷ đồng, tăng lần lượt 38% và 84% so với cùng kỳ năm 2020. Dự kiến lợi nhuận hợp nhất trước thuế cho 6 tháng đầu năm của SSI đạt 1.255 tỷ đồng, tăng 90% so với nửa đầu năm 2020 và hoàn thành 64% kế hoạch. Dư nợ cho vay (margin) cuối quý II đạt 15.539 tỷ đồng, tăng 72% so với đầu năm, cũng là mức kỷ lục đối với hoạt động cho vay ký quỹ của SSI.

Đối với MASVN doanh thu hoạt động đạt 618 tỷ đồng, tăng 81,5% so với cùng kỳ năm trước. Lãi sau thuế giảm 3% xuống 151 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng, doanh thu hoạt động đạt 1.140 tỷ đồng, tăng 87% so với nửa đầu năm 2020. Lợi nhuận sau thuế tăng 31% lên gần 319 tỷ đồng. Cho vay margin tại thời điểm 30/6 ở mức 13.330 tỷ đồng, tăng 28,7% so với đầu năm và tăng 11,3% so với cuối quý I. Tỷ lệ cho vay margin cuối quý II/vốn chủ sở hữu gần 90%.

Đứng thứ 3 về dư nợ cho vay là Chứng khoán VNDIRECT (HN:VND) với 9.302,3 tỷ đồng, tăng 42,3% so với cuối quý I. Như vậy, chỉ tiêu này của VNDirect đã vượt qua công ty chứng khoán đứng trên ở quý trước là Chứng khoán TP HCM (HSC, HoSE: HM:HCM). Dư nợ cho vay của HSC chỉ tăng 3,3% so với quý trước.

3. Standard Chartered và ADB hạ dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Trong báo cáo mới nhất được công bố, Ngân hàng Standard Chartered dự báo nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục ghi nhận mức tăng trưởng cao trong năm nay và năm sau. Ngân hàng này điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam năm nay xuống mức 6,5%, giảm nhẹ so với dự báo 6,7% đưa ra trước đó.

Về tăng trưởng năm 2022, Standard Chartered dự báo kinh tế Việt Nam tiếp tục được duy trì ở mức 7,3%. Nhận định này dựa trên kỳ vọng nền kinh tế sẽ phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch COVID-19. Tuy nhiên, làn sóng COVID-19 hiện tại có thể ảnh hưởng tới các dự báo trong tương lai.

Các chuyên gia kinh tế của Standard Chartered dự báo các lĩnh vực tập trung vào thị trường trong nước như bán lẻ sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất nếu làn sóng dịch COVID-19 hiện tại kéo dài. Điều cần chú ý hiện nay là liệu những tác động lên lĩnh vực công nghiệp sẽ là nhất thời hay kéo dài.

"Đại dịch đã gây ra những ảnh hưởng lên nền kinh tế trong nước khi lĩnh vực du lịch bị co hẹp, chuỗi cung ứng bị gián đoạn và nhu cầu từ thị trường quốc tế suy yếu. Tuy nhiên, các yếu tố bên ngoài đang cho thấy những dấu hiệu hồi phục. Xuất khẩu trong nửa đầu năm đã tăng 28,4% và nhập khẩu tăng 36,1%", báo cáo của Standard Chartered nêu rõ.

Theo Standard Chartered, lạm phát gia tăng sẽ ảnh hưởng đến khả năng xảy ra các đợt cắt giảm lãi suất tiếp theo. Mặc dù tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tín dụng đã được cải thiện từ quý 4/2020 nhưng các đợt tăng lãi suất sẽ không xảy ra. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước có khả năng sẽ duy trì lãi suất tái cấp vốn ở mức 4% cho đến cuối năm 2023 để hỗ trợ tăng trưởng tín dụng. Khả năng xảy ra một đợt tăng lãi suất có thể sẽ gia tăng nếu lạm phát và tốc độ tăng trưởng tăng nhanh hơn dự kiến.

Trong khi đó, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng hạ dự báo GDP Việt Nam xuống còn 5,8% từ mức 6,7% đưa ra hồi tháng 4. ADB cho rằng, nhờ vào sự phục hồi thương mại toàn cầu trong thời gian gần đây đã thúc đẩy xuất khẩu kéo theo mức tăng trưởng GDP của Việt Nam tăng nhanh lên mức 5,6% trong nửa đầu năm 2021, so với mức 1,8% vào cùng kỳ năm 2020.

Tuy nhiên, đợt bùng phát lần thứ 4 của dịch COVID-19 mới đây kéo theo sự gián đoạn của các chuỗi cung ứng cùng với việc áp dụng các biện pháp giãn cách kéo dài ở nhiều tỉnh, thành phố - nơi có mức tăng trưởng kinh tế lớn nhất nước đã ảnh hưởng nặng nề tới lưu thông thương mại và hạn chế rất nhiều các hoạt động kinh tế trong năm 2021.

Làn sóng COVID-19 lần thứ 4 bùng phát tại Việt Nam hôm 27/4, đến nay đã gần ba tháng vẫn chưa thể khống chế hoàn toàn. Tính đến sáng 21/7, cả nước ghi nhận hơn 61.900 ca nhiễm, trong đó TP HCM - đầu tàu kinh tế có số bệnh nhân cao nhất với hơn 40.500 trường hợp. Hiện, TP HCM, Bình Dương, Đồng Nai cùng 16 tỉnh thành phía Nam đang thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 nhằm kiểm soát làn sóng lây nhiễm.

Hot Auto Trade Bot Phương Thức Thanh Toán
BROKERS ĐƯỢC CẤP PHÉP
net_home_top Ai VIF
01-05-2024 10:45:17 (UTC+7)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

GBP/USD

1.2475

-0.0015 (-0.12%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

USD/JPY

157.91

+0.12 (+0.07%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

AUD/USD

0.6469

-0.0003 (-0.05%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

USD/CAD

1.3780

+0.0003 (+0.03%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (7)

Sell (0)

EUR/JPY

168.32

+0.10 (+0.06%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

EUR/CHF

0.9808

+0.0001 (+0.01%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (2)

Gold Futures

2,295.80

-7.10 (-0.31%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Silver Futures

26.677

+0.023 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (2)

Sell (10)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Copper Futures

4.5305

-0.0105 (-0.23%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (8)

Sell (1)

Crude Oil WTI Futures

81.14

-0.79 (-0.96%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Brent Oil Futures

85.62

-0.71 (-0.82%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (1)

Sell (11)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Natural Gas Futures

1.946

-0.009 (-0.46%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (5)

US Coffee C Futures

213.73

-13.77 (-6.05%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

Euro Stoxx 50

4,920.55

-60.54 (-1.22%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

S&P 500

5,035.69

-80.48 (-1.57%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

DAX

17,921.95

-196.37 (-1.08%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

FTSE 100

8,144.13

-2.90 (-0.04%)

Summary

Sell

Moving Avg:

Buy (5)

Sell (7)

Indicators:

Buy (2)

Sell (4)

Hang Seng

17,763.03

+16.12 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

US Small Cap 2000

1,973.05

-42.98 (-2.13%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

IBEX 35

10,854.40

-246.40 (-2.22%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (6)

Sell (6)

Indicators:

Buy (3)

Sell (3)

BASF SE NA O.N.

49.155

+0.100 (+0.20%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Bayer AG NA

27.35

-0.24 (-0.87%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (8)

Allianz SE VNA O.N.

266.60

+0.30 (+0.11%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (5)

Adidas AG

226.40

-5.90 (-2.54%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (7)

Deutsche Lufthansa AG

6.714

-0.028 (-0.42%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (9)

Sell (1)

Siemens AG Class N

175.90

-1.74 (-0.98%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Deutsche Bank AG

15.010

-0.094 (-0.62%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (6)

Sell (2)

    EUR/USD 1.0658 ↑ Sell  
    GBP/USD 1.2475 ↑ Sell  
    USD/JPY 157.91 ↑ Buy  
    AUD/USD 0.6469 Neutral  
    USD/CAD 1.3780 ↑ Buy  
    EUR/JPY 168.32 ↑ Buy  
    EUR/CHF 0.9808 Neutral  
    Gold 2,295.80 ↑ Sell  
    Silver 26.677 ↑ Sell  
    Copper 4.5305 ↑ Buy  
    Crude Oil WTI 81.14 ↑ Sell  
    Brent Oil 85.62 ↑ Sell  
    Natural Gas 1.946 ↑ Sell  
    US Coffee C 213.73 ↑ Sell  
    Euro Stoxx 50 4,920.55 ↑ Sell  
    S&P 500 5,035.69 ↑ Sell  
    DAX 17,921.95 ↑ Sell  
    FTSE 100 8,144.13 Sell  
    Hang Seng 17,763.03 ↑ Sell  
    Small Cap 2000 1,973.05 ↑ Sell  
    IBEX 35 10,854.40 Neutral  
    BASF 49.155 ↑ Sell  
    Bayer 27.35 ↑ Sell  
    Allianz 266.60 ↑ Sell  
    Adidas 226.40 ↑ Sell  
    Lufthansa 6.714 Neutral  
    Siemens AG 175.90 ↑ Sell  
    Deutsche Bank AG 15.010 Neutral  
Mua/Bán 1 chỉ SJC
# So hôm qua # Chênh TG
SJC Eximbank8,300/ 8,500
(8,300/ 8,500) # 1,298
SJC 1L, 10L, 1KG8,300/ 8,520
(0/ 0) # 1,510
SJC 1c, 2c, 5c7,380/ 7,550
(0/ 0) # 540
SJC 0,5c7,380/ 7,560
(0/ 0) # 550
SJC 99,99%7,370/ 7,470
(0/ 0) # 460
SJC 99%7,196/ 7,396
(0/ 0) # 386
Cập nhật 01-05-2024 10:45:19
Xem lịch sử giá vàng SJC: nhấn đây!
ↀ Giá vàng thế giới
$2,285.72 -47.5 -2.04%
Live 24 hour Gold Chart
ʘ Giá bán lẻ xăng dầu
Sản phẩm Vùng 1 Vùng 2
RON 95-V25.44025.940
RON 95-III24.91025.400
E5 RON 92-II23.91024.380
DO 0.05S20.71021.120
DO 0,001S-V21.32021.740
Dầu hỏa 2-K20.68021.090
ↂ Giá dầu thô thế giới
WTI $80.83 +3.39 0.04%
Brent $85.50 +3.86 0.05%
$ Tỷ giá Vietcombank
Ngoại tệMua vàoBán ra
USD25.088,0025.458,00
EUR26.475,3627.949,19
GBP30.873,5232.211,36
JPY156,74166,02
KRW15,9219,31
Cập nhật lúc 10:45:15 01/05/2024
Xem bảng tỷ giá hối đoái
Phương Thức Thanh Toán